chư vị chân linh là gì

Cũng vậy, siêu thoát hay không là do chính nỗ lực giác ngộ của hương linh. Mặc dù những trợ duyên như tha lực của Phật và các vị Bồ tát, sự hộ niệm của chư Tăng, sự thành tâm tạo phước của thân nhân… là vô cùng cần thiết nhưng không phải là tác nhân chính cho việc thành tựu siêu thoát. modus dari data pada tabel diatas adalah. Chân thân tự lập nhất hát Tần thân, Chí tâm tị tổ, tất dao văn, tuỳ xứ hiện chân nhân, thành ý ân cần, Liệt vị hội Tinh thần. Nam mô Hương Vân cái Bồ tát Ma ha tát. 3 lần ooo Phù dĩ Hương hoa đấu thể, Đăng chúc liên huy. Đại chúng chí thành, Đồng xưng tán lễ. 000 Thân sinh Tổ đức ngưỡng nham nham – Giá liễu tiền tam dữ hậu tam Thiên thượng nguyệt minh phong thượng bạch Thuỷ trung giám vị hải trung hàm – Vô phương ứng hiện vân phi lĩnh Bất muội Hư linh nguyệt ấn đàm – Kim nhật Đạo tràng thân khải thỉnh Nguyện thuỳ Phương tiện giám Chân cam. Nam mô Dẫn Linh hồn Bồ tát Ma ha tát. 3 lần ooo Phù dĩ Pháp diên Quang khải, thành ý Phương ân, dục triệu thỉnh ư Tiên linh, tu gia trì ư Pháp thuỷ. Phù thuỷ giả Nguyên tòng tính xuất, Bản tại Tâm sinh, năng linh phân khí chi tiêu không, phổ sử Pháp duyên nhi Thanh tịnh. Giáo hữu khiết tịnh Chân ngôn, cẩn đương phúng tụng. Khể thủ quy y Tô tất đế – Đầu diện đỉnh lễ Thất câu chi Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn đề – Duy nguyện Từ bi thùy gia hộ. Nam mô Sap ta Nam – Sam dac Sam But đa – Cô ti Nam – Tat đi da tha Ôm. Ca lê Cu lê Cun đê. Sva ha. 3 biến Nam mô Tát đá nẫm Tam miểu, Tam Bồ đà, Câu chi nẫm Đát điệt tha Úm. Triết lệ Chuẩn đề. Sa bà ha 000 Hiệu hiệu Kim ba hàm Ngọc trản – Phi phi Bạch lộ sái Quỳnh tương Kim bằng Bí ngữ lực gia trì – Cấu uế Đàn tràng tất Thanh tịnh. Ôm. Ba tê tra sThi tha ra na đi stra. Sva ha. 3 lần Úm. Bắc đế tra, thiên thần la na, địa tra. Sa bà ha Nam mô Ly cấu Địa Bồ tát Ma ha tát. 3 lần ooo Thiết dĩ Văn công gia pháp, bị tường tế tự chi nghi. Phù tử di thư, cụ tải tang thân chi lễ. Nhiên tồn châm trước, cố dụng khoa nghi, phù nghi giả Tam ma đề địa, bá Tam giới chi bao hàm. Nhất niệm Chân tâm, quảng Thập phương chi biến chiếu. Quang minh bất muội, Thanh tịnh vô trần, dụng thời chủng chủng Tâm sinh, thu xứ huyền huyền Pháp tạng. Thị cố tiên trình kê thiệt, thứ hiến ngưu đầu. Thử hương dã Sắc – Không bất nhị, Tính – Tướng vô song. Thanh tịnh Căn nguyên, bất giả tài bồi chi lực. Hi kì chủng tính, toàn bằng tri kiến chi công. Giáo hữu Nhiên hương Chân ngôn, cẩn đương phúng tụng. ooo Tâm hương nhất chú mãn Càn khôn – Tán xứ Quang thông vạn cổ tồn Liễu nhiễu hư không tuỳ xứ hiện – Tổ tông ứng hiện xuất huyền môn Nam mô Hương Cúng dàng Bồ tát Ma ha tát. 3 lần ooo Cung văn Tam tài định vị, độc Nhân Tối linh, Thiên sinh Nhân, Nhân thành Thiên, tự hữu huyền vi chi thử lí. Tử kế Phụ, Phụ kế Tổ, Nguyên lai phồn diễn chi Chính tông. Lục thuận Lục hành, tưởng Tiên đức tài bồi chi chỉ. Ngũ thường Ngũ phúc, diễn hậu côn ấm tý chi hưu. Tư thần Chúng đẳng ổi dĩ vi khu nhục thừa di thể. Thuộc mao li lý phủ dục mông quyến ái chi tình; bão tất xuyên y cố phục hà cù lao chi niệm. San ân Sơn trọng, ẩm đức hà thâm. Tư nhân lệnh tiết chi lương thời, kính trần mao giản thức chiêu tố khổn, kiền phụng Linh thân đoàn viên như tại. Tuy mạc đổ vu Tiên dung, cảm niệm truy ân lượng tất tri ư thành ý. Giáo hữu Phổ Triệu tập Chân ngôn, cẩn đương phúng tụng. ooo Dĩ thử Chân ngôn thân triệu thỉnh – Tiên tổ Nội ngoại dao văn tri Trượng thừa Tam bảo lực gia trì – Thử nhật kim thời lai giáng phó. ooo TRIỆU THỈNH CHÂN NGÔN Nam mô Bu pu Tê ri – Ca ri Ta ri – Ta tha ga ta da. 3 lần Nam mô bộ bộ đế lỵ già ly đá lỵ đát đá nga đá da ooo Thượng lai triệu thỉnh Chân ngôn tuyên dương dĩ kính. Chúng đẳng kiền thành, phần Hương nghinh thỉnh. Hương hoa thỉnh. ooo 1 Nhất tâm phụng thỉnh Quyền tư Lục hợp, Vị liệt Tứ duy; khử Hung uế ư Tha phương, tập Trinh tường ư Thử giới. Cung duy Bản Gia Ngũ phương Thổ công, Sơn Thần Địa chủ, Thổ phủ Thần kỳ, Thanh long Bạch hổ, Chu tước Huyền vũ Thần quan; Cửu cung Bát quái, Sơn hướng, Nhị thập tứ Sơn, Nhị thập tứ Hướng, Nhị thập tứ Khí, Nhị thập bát Tướng, Thất thập nhị Hầu nhất thiết Uy linh Tịnh cập Thái âm Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Nguyên hoàng Phu nhân, tả Chiêu tài Đồng tử, hữu Tiến bảo Nương quân; Địa phương Địa chủ, Bản cảnh Thành hoàng, Chúa cảnh Bản xứ, Tứ duy Lục hợp, Đạo lộ Thần quan. Phả cập Tiền hậu Địa chủ, cấm kỵ đẳng Thần nhất thiết Uy linh Chư tư Bộ chúng – Tọa hạ. Duy nguyện Trấn an Cảnh nội, thủ hộ Gia trung, giáng phó Đàn duyên thụ tư cúng dàng. Hương hoa thỉnh. ooo 2 Nhất tâm phụng thỉnh Bách sự kiệm cần, nhất sinh Từ thiện, Tử kính đình nội, di di bá trọng chi tổn trì. Đan quế giai tiền tỉnh tỉnh nhi tôn chi thằng xích, việt tòng chu hỗ mỗi tưởng như tồn. Ân tư cần tư cảm đức mạc thù ư Hậu địa; Khí ngã Vong ngã kỳ ai đồ dụ ư Hạo thiên. Tư nhân lệnh tiết chi Lương thời; thật thiết thời tư chi cảm, cẩn trượng song lâm chi Giáo pháp, dụng thù vĩnh kiếp chi Ân thâm. Cung duy Thủy Tổ, Tổ chi, Cửu huyền Thất tổ, Tổ cô Hội đồng, Tổ mãnh Hội đồng, Cao cao cao Tổ khảo, Cao cao cao Tổ tỷ, Cao cao Tổ khảo, Cao cao Tổ tỷ, Cao tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ tỷ mỗ tộc Tổ tiên Chân linh Liệt vị vị tiền. Duy nguyện Tứ đại Quy ân Nhất tính trường minh, giáng phó Đàn duyên thụ tư cúng dàng. Hương hoa thỉnh. ooo 3 Nhất tâm phụng thỉnh Tiên dung yểu điệu, Hoàng hậu phi phương, Hằng nga nhan sắc đản sinh ứng tích ư Nam bang, Thụy khí tường vân hiện thân tướng hóa hình ư Lệnh tộc. Đức tính nhu hòa thanh vô tú dị tại Thế thượng cúc phương lan sạn. Quả mãn triêu Thỏ ảnh Ô phi huyễn cảnh phi Không Tiên xa tảo giá chấn tộc Nội ngoại hiển dương, Đệ nhất đĩnh nhân hoàn yểu điệu vô song. Cung duy mỗ tộc Tổ cô Hoa nương hiển linh Thánh nữ vị tiền Duy nguyện Tinh minh xuất hiện, Linh khí giáng Thần, lai phó Đàn duyên thụ tư cúng dàng. Hương hoa thỉnh. ooo 4 Nhất tâm phụng thỉnh Dương vi Thần âm vi quỷ, đồ Tạo hóa chi Hữu thường. Sinh viết ký, tử viết quy, ta nhân sinh chi Năng cơ thời quang dịch mại, Tiên viễn cảm Vong. Cung duy mỗ tộc Tổ lệnh công Cao lang Mãnh tướng Uy linh vị tiền. Duy nguyện Hư linh hữu cảm, Anh sảng nhược tồn, giáng phó Đàn duyên thụ tư cúng dàng. Hương hoa thỉnh. 5 Nhất tâm phụng thỉnh Đạo tôn Lục nghĩa, Đức trọng Ngũ luân. Khiêm dự kiêm cai, tam sự vô phạm vô ân, vinh hưởng nhất đường, tiết kiệm thu toàn Lục lễ chi hữu thủ hữu hiến. Giang chiêu thiên cổ, Đức hậu vạn niên; canh tường thiết ý phong mộc cảm tâm; Liệt vị thùy từ, chư Linh động giám. Cung duy mỗ tộc Gia tiên Khảo tỷ, Bá thúc Huynh đệ, Cô gì Tỷ muội, Cô bé Cậu bé Nội ngoại, Tại gia phả cập Tiền sinh Hậu hóa, Tảo sinh Tảo lạc, Hữu danh Vô vị, Hữu vị Vô danh, Hữu danh Hữu vị, Vô danh Vô vị, Khuyết danh Ẩn danh, Hữu sinh Vô dưỡng, Vô sinh Vô dưỡng… Đường thượng Lịch đại Nội ngoại Tổ tiên …tộc, Lục thân Quyến thuộc các thế các đời nhất thiết các chư Chân linh; Á thân Liệt thính viễn cận, tiên vong hậu hóa, hữu danh hữu hiệu, vô danh vô hiệu, đẳng đẳng Sảng linh, trùng trùng Quyến thuộc phả cập chư vị Tiền chủ Hậu chủ, Chân linh phảng phất, Y thụ Thảo mộc cư ngụ Trạch thổ. Duy nguyện Đồng quần Hợp tập, Hội chúng đoàn viên, giáng phó Đàn duyên thụ tư cúng dàng. Hương hoa thỉnh. ooo Thượng lai triệu thỉnh, ký mộc quang lâm, An tọa Chân ngôn, cẩn đương phúng tụng. Thốn tâm kính niệm thiết đăng sàng – Ngũ nội thời thời diệc tán dương Hiếu đại Gia sơ hà dĩ bảo – Thời trần bồ soạn nhất tam hương Nam mô Vân Lai tập Bồ tát Ma ha tát. 3 lần ooo Thượng lai An tọa Chân ngôn, tuyên dương dĩ kính, Tín chủ cẩn cụ phỉ nghi, Thượng hiến đàn tiền, phủ thùy nạp thụ, Tín chủ kiền thành, đô thân phụng hiến. Giáo hữu biến thực Chân ngôn cẩn đương trì tụng. 000 BIẾN THỰC CHÂN NGÔN Nam mô Sa rva Ta tha ga ta A va lô ki tê. Ôm. Sam ba ra Sam ba ra. Hum. 3 lần Nam mô Tát phạ đát tha nga đá Da, a phạ rô chỉ đế Úm. Tam bạt la, tam bạt la hồng. 000 CAM LỘ THỦY CHÂN NGÔN Nam mô Sô rô Ba da – Ta tha ga ta da, Ta đja tha Ôm. Sô rô Sô rô – Ha ra Sô rô – Ha ra Sô rô. Sva ha. 3 lần Nam mô Tô rô bà ra, đát tha nga đá ra, đát điệt tha, Úm. Tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, sa bà ha 000 PHẢ CÚNG DÀNG CHAN NGON Vô lượng Nhân duyên nhất thiết cúng – Phổ thí Pháp giới chư Chúng sinh Nhược dĩ Hương hoa phả cúng dàng – Duy năng thành tựu Phật Công đức. 000 Ôm. Ga ga nga, Sam ba va Va di ra. Hột. 3 lần Úm. Nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhất la hộc Nam mô Phả cúng dàng Bồ tát Ma ha tát. 3 lần 000 Thượng lai Cúng diên dĩ mãn, lễ thiết vân chu, cụ hữu Sớ văn, cẩn đương tuyên đọc. Tuyên sớ. Thượng lai Văn sớ tuyên độc dĩ chu, nạp dữ Kim ngân chỉ tiền, dụng bằng hỏa hóa. Hóa sớ… Nguyên phù phàm viết Nhân tâm thị danh Phật tính, hoạt bát như châu tại địa, Quang thước thước tự nguyệt đương thiên, chỉ tại cừ sinh khởi tòng địa xuất; tịch tịch bất ly ư tâm thượng, minh minh Tổng thị ư mục tiền; Thu thời nhất niệm bất sinh, tán xứ vạn bàn xuất hiện. Chân linh vấn thậm, Ma pháp xứ ngũ nhất Sơn hạ hảo tầm tung, bách xích hãn đầu thường tiến bộ. Sắc thị Không, Không thị Sắc; vô linh nhận giả thành Chân. Tâm tức Phật, Phật tức Tâm; thả tự hồi Quang phản chiếu. Di đà cảnh giới nhậm tiêu dao, Tịnh độ Liên đài thường tự tại. Giáo hữu biến thực Chân ngôn cẩn đương trì tụng. ooo VÃNG SINH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ Nam mô A mi ta ba da – Ta tha ga ta da. Tat da tha Ma ri tôt Ba vê – Am rta Sit đam Ba vê – Am rta Vi cra tê, Am rta Vi cra ta – Ga mi nê Ga ga na – Ki rờ ta Ca rê. Sva ha. 3 lần. Nam mô A di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha, A di lị đô bà tì, A di lị đá tất đam bà tì, A di lị đá tì ca lan đế, A di lị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ. Sa bà ha ooo Trịch cước Diêm phù tự thảo hài – Cánh vô nhất vật khả quan hoài Viên minh Pháp tính siêu Tam giới – Nhất niệm Di đà thăng Bảo đài Nam mô Sinh Tịnh độ Bồ tát Ma ha tát. 3 lần 000 Thập phương tam thế Phật – A Di đà đệ nhất Cửu phẩm độ Chúng sinh – Uy đức vô cùng cực Ngã kim đại quy y – Sám hối Tam nghiệp tội Phàm hữu chư Phúc thiện – Chí tâm dụng hồi hướng Nguyện đồng niệm Phật nhân – Cảm ứng tuỳ thời hiện Lâm chung Tây phương cảnh – Phân minh tại mục tiền Kiến văn giai tin tiến – Đồng sinh Cực Lạc quốc Kiến Phật liễu sinh tử – Như Phật độ nhất thiết Vô biên Phiền não đoạn – Vô lượng Pháp môn tu Thệ nguyện độ Chúng sinh – Tổng giai thành Phật đạo Hư không hữu tận – Ngã nguyện vô cùng Tình dữ Vô tình đồng viên Chủng trí. ooo Tự quy y Phật, đương nguyện Chúng sinh – Thể giải Đại đạo, phát Vô thượng Tâm. 1 lễ 0 Tự quy y Pháp, đương nguyện Chúng sinh – Thâm nhập Kinh tạng, Trí tuệ như Hải. 1 lễ 0 Tự quy y Tăng, đương nguyện Chúng sinh – Thống lý Đại chúng, nhất thiết vô ngại. 1 lễ ooo Hòa nam Thánh chúng Nguyện dĩ thử Công đức – Phổ cập ư nhất thiết Ngã Đệ tử, Chúng sinh – Giai cộng thành Phật đạo. ooo PHÂN BIỆT TUỆ LINH, CHÂN LINH, VONG LINH Tôi đã đi nhiều nơi, đã nghe nhiều bậc tu hành cúng kiếng, trì tụng. Tôi đã chứng kiến rất nhiều những nhầm lẫn hay có thể gọi đó là sự chưa chính xác trong việc dùng thuật ngữ cũng như ý hiểu về các vấn đề tâm linh. Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ tới mọi người ý nghĩa và cách dùng từ ngữ tâm linh cho đúng. Bởi có những từ ngữ mà chính các bậc tu hành, những thầy pháp sư sử dụng sai. 1. Tuệ linh là gì? khi nào thì gọi là tuệ linh? Tuệ linh là gì? Tuệ linh là linh khí kết tụ có trí tuệ di chuyển và cải tạo không gian vũ trụ. Hay cũng được hiểu theo học thuyết hạt năng lượng thì đó là "tổng hòa năng lượng có liên kết bởi mã sóng trí tuệ có thể di chuyển và cải tạo thế giới quan vũ trụ ". Tuệ linh là bản thể gốc của dạng sống Tuệ linh. Sau khi các tuệ linh luân hồi tu luyện đạt được phẩm vị mới đắc được các quả vị như thánh nhân, bồ tát, phật.... Như vậy, nói đến Tuệ linh là nói đến gốc, đến cội nguồn của tất cả chư thiên, trời, thần phật. Và nói đến các quả vị thì đó là thành quả của Tuệ linh. Khi nào thì gọi là Tuệ linh? Bất kể khi nào đều cũng gọi được là tuệ linh, bởi đó là cội nguồn, là bản thể gốc của mọi phẩm vị, của cả dạng sống tuệ linh. Khi chúng ta đang sống, chúng ta gọi tuệ linh của ta. Chúng ta gọi tuệ linh của Ngài nào đó. Như Tuệ linh của Đức Phật, Bồ Tát,... Thậm chí có thể gọi là tuệ linh của cụ A nào đó vừa mới thoát tục cõi trần nhân sinh. 2. Vong linh là gì? Khi nào gọi là Vong linh? Vong linh là gì? Vong linh nghĩa là dạng sống linh khí tuệ linh, linh hồn của muông thú. Sau khi thoát khỏi thân xác chết phần thân xác Sẽ phải quá cảnh tu luyện tại địa phủ để dưỡng nguyên thần rồi tiếp tục luân hồi làm người. Ta hiểu đơn giản là cuộc sống lưu vong để tu luyện của các tuệ linh, linh hồn do khi sống vãn còn chấp ngã, sân, hận, tạo nghiệp nên phải được sắp xếp tu luyện ở nơi đặc biệt . Đó là địa phủ. Đó là nơi tạm, là nơi phản chiếu nghiệp lực cho những tuệ linh, linh hồn sau 1 kiếp người trên nhân gian. Khi nào gọi là Vong linh? Khi con người thoát tục chết và được trở về địa phủ cảnh địa ngụ, cảnh âm, cảnh địa phật thì gọi là vong linh. Tuy nhiên, cũng sau khi thoát tục, tuệ linh do tạo phước nhiều, không có chấp, sân hận, hay nghiệp ác thì sẽ được trở về cõi trời cội nguồn để luyện nguyên thần. Trường hợp này không phải lưu vong thì ta không gọi là vong linh. Dân gian hay gọi là gia tiên có cụ làm quan. Để phân biệt được 1 người sau khi mất về cảnh giới nào chỉ có thiền định mới có thể thấy được. 3. Chân linh là gì? khi nào gọi chân linh? Chân linh là gì? Chân linh là gốc tu hành của dạng sống linh hồn hay tuệ linh. Tức là tuệ linh hoặc linh hồn đã tu hành và đạt được các thành quả ở nhân gian. Linh hồn muông thú được chuyển sinh làm thần là do đã có nhiều kiếp làm muông thú giúp con người tu hành. Khi được chuyển làm thần thì đó là thành quả của họ do đã tu hành mà có được. Ban giám sát hộ thần là cõi trời của linh hồn muông thú được chuyển sinh làm thần. Do đó chư thần pháp lực rất yếu. Tuệ linh được gọi là chân linh là do khi làm người đã mang lại được lợi ích cho chúng sinh. Đó là thành tựu tu hành của tuệ linh ở nhân gian. Khi nào gọi là Chân linh? Gọi chư thần là Chân linh vì họ đã có chân tu với thành tựu mà được làm thần. Gọi chân linh phật tổ, chân linh hàng bồ tát, ...VÌ họ đã có gốc tu hành với thiện phước vô lượng. Người mới mất không được gọi là chân linh, vì họ còn đang luân hồi. Nếu sau 49 ngày thoát tục mà họ trở về cõi trời cội nguồn với phẩm vị quả vị tu hành đạt được thì mới được gọi là chân linh. Thực tế, người dân, các bậc tu hành, các thầy vẫn còn lầm lẫn. việc lầm lẫn cũng do chưa hiểu bản chất của dạng sống tuệ linh, sứ mệnh tu hành nơi nhân gian. Không hiểu các cảnh giới. Khi không hiểu mà thực hành nghi lễ tâm linh sẽ không hiệu quả. Tôi từng thấy Quan thần linh chân linh quan thần linh ở nhà đài hóa thân nói ông thầy cúng là "Thầy bà cúng khấn lôm côm". Lôm côm vì các vị ấy cúng khấn mà không hiểu gì. Chư thần sẽ biết chúng ta có hiểu hay không bởi họ đọc được năng lượng trong chúng ta, biết trí tuệ của chúng ta. Do vậy, tôi viết bài ngắn này để chúng ta nghiên cứu và tham vấn thêm, thông qua đó làm hành trang để việc tri ân thiên địa, gia tiên dúng và khoa học hơn. Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa Kim Linh. Ý nghĩa của từ Kim Linh theo Tự điển Phật học như sau Kim Linh có nghĩa là 金鈴 linh vàng. Linh s ghaṇṭā, 鈴 là một loại pháp khí dùng đánh lên trước bàn Phật khi tụng kinh; được chế bằng loại đồng xanh, đồng đỏ. Loại pháp khí này còn có tên là Kim Cang Linh 金剛鈴, Kim Linh, hình như cái chuông, bên trong có treo quả cầu đồng. Trong Mật Giáo, khi tu pháp, Linh được dùng để làm kinh động, tỉnh giác chư tôn, hay khiến cho chư vị hoan hỷ. Cho nên Linh có 3 nghĩa là làm kinh động tỉnh giác, làm cho hoan hỷ, và thuyết pháp. Khi làm cho Linh kêu vang để cúng dường chư tôn, được gọi là Chấn Linh 振鈴. Linh có 5 loại là Độc Cổ Linh 獨鈷鈴, Tam Cổ Linh 三鈷鈴, Ngũ Cổ Linh 五鈷鈴, Bảo Linh 寶鈴, Tháp Linh 塔鈴. Kim Cang Linh là hình Tam Muội Da 三昧耶 của Kim Cang Linh Bồ Tát 金剛鈴菩薩. Như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên 五燈會元, CBETA No. 1565 quyển 20 có câu “Giải mãnh hổ hạm hạ kim linh, kinh quần động chúng; thủ thương long huyệt lí minh châu, quang thiên chiếu địa 解猛虎頷下金鈴、驚群動眾、取蒼龍穴裏明珠、光天照地, tháo dưới cằm hổ dữ kim linh, kinh động quần chúng; lấy châu sáng trong huyệt rồng xanh, sáng tỏ trời đất.” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục 高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277 cũng có câu “Thượng lai chấn động Kim Linh, hô chiêu nhữ đẳng quỷ chúng, nhiên thả nhữ đẳng tùng Địa Ngục trung xuất, nghiệp đạo trung lai, sạ văn luy bạt chi thanh, tất khởi kinh hoàng chi niệm 上來振動金鈴、呼召汝等鬼眾、然且汝等從地獄中出、業道中來、乍聞鏍鈸之聲、必起驚惶之念, nhân nay chấn động Kim Linh, mời gọi quỷ chúng các người, như vậy các người từ trong Địa Ngục ra, từ trong nghiệp đạo đến, vừa nghe tiếng não bạt, tất khởi niệm kinh hoàng.” Trên đây là ý nghĩa của từ Kim Linh trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật. Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà. Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online Kiếp tai 劫災 Kiếp tận 劫盡 ka la sai ma thích tinh xá Ka-la-lã Ka-la-lã 柯羅邏 Ka-la-pa Ka-na Kha-la Ka-na ề-bà Ka-pa-la-pa kakushin HỖ TRỢ CHÚNG TÔI Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng. STK 117 002 777 568 Ngân hàng Công thương Việt Nam Nội dung Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp Cùng lan toả Đạo Pháp. Trang Đầu Mục Lục Hướng Dẫn Mười một môn đồ, đi qua xứ Ga-li-lê, lên hòn núi mà Đức Chúa Jêsus đã chỉ cho. Khi môn đồ thấy Ngài, thì thờ lạy Ngài; nhưng có một vài người nghi ngờ. Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh-linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế. Ma-thi-ơ 2816-20 Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Đức Thánh-linh ở với anh em hết thảy! 2 Cô-rinh-tô 1314. Nhiều người khi đọc Kinh-thánh thấy có khi nói đến Thần, rồi khi khác lại nói đến Thánh-linh. Chữ Thần làm cho người ta nghĩ đến thần linh trong ý nghĩa của người đời, tức là hồn ma, còn chữ Thánh-linh là danh hiệu dùng cho một trong ba ngôi Đức Chúa Trời. Có người đề nghị là sao không gọi đó là ảnh hưởng của Đức Chúa Trời? Nhưng điều quan trọng cần lưu ý chính là Thánh-linh là một thân vị a person. Khi chú trọng đến ảnh hưởng hoặc quyền năng hay là sức mạnh của Thánh-linh là đã quên Thánh-linh là một thân vị. Và như thế là làm giảm uy danh của Thánh-linh, cho rằng Ngài chỉ là một cái gì đó mà thôi như dụng cụ chẳng hạn. Trong đời thường, khi nào ta đối xử với người nào, coi người ấy như đồ vật là làm mất phẩm giá của người ấy. Đối với Thánh-linh thì cách đối xử như thế còn nguy hại hơn. Điều khó của chúng ta là khi nói đến thân vị nào, chúng ta phải liên tưởng đến một gương mặt và một thân hình mà gương mặt ấy thuộc về. Như khi ta nghĩ đến một người thân hay người bạn, ta mường tượng ra một hình dáng và một bộ mặt. Khi nói Thánh-linh là một thân vị, ta thấy hơi khó. Vì làm sao hình dung ra Thánh-linh như thế nào? Kinh-thánh dùng các biểu tượng để mô tả các công việc của Thánh-linh, các biểu tượng đó là chim bồ câu, một cơn gió mạnh, các lưỡi trong dạng lửa cháy, rượu mới, dầu dùng để xoa trên tóc. Nhưng tất cả các biểu tượng này cho ta thấy Thánh-linh như thế nào chứ không cho biết Thánh-linh là ai? Nghĩa là những hình ảnh về hoạt động hay là việc Thánh-linh đem lại như an bình, sức mạnh và niềm vui. Ta nói Thánh-linh là một thân vị nhưng lại không thấy được Ngài như thế nào. Không ai vẽ ra được Thánh-linh với hình dạng nào. Nhưng Ngài vẫn là một thân vị a person. Nhưng nan đề đó là đối với chúng ta, là do giới hạn của con người với nhận thức rất lờ mờ. Nếu chúng ta quan sát thật kỹ về những gì liên quan đến thân vị, chúng ta sẽ nhận thấy rằng gương mặt và hình dạng thật ra không phải là trọng tâm. Có lẽ chiếc máy điện thoại có thể minh chứng điểm này. Mỗi ngày chúng ta thường có những cuộc đối thoại với nhiều người, nhất là trong thương mại, mà chúng ta chưa bao giờ gặp mặt. Dù cho đi đường gặp những người đó chúng ta cũng không biết là ai. Có những người giao dịch với nhau lâu trở thành bạn. Người này có thể mường tượng ra có thân vị như thế nào. Những gì người ấy ưa thích hay là ghét; những thái độ cơ bản của người ấy; những sở trường và sở đoản Như thế chỉ với tiếng nói và sức mạnh của lời nói mà gần như ta biết được nguyên cả thân vị của một người. Thánh-linh cũng vậy. Chúng ta không trông thấy hay đụng chạm được vào Ngài; nhưng do nghe lời Ngài trong Kinh-thánh và lưu ý đến những gì chính Chúa Giê-xu và các môn đệ của Ngài nói về Ngài, chúng ta có thể hiểu được và biết được thân vị đó. Thánh-linh là một thân vị. Kinh-thánh nói rõ điểm này bằng nhiều cách trước tiên là chú trọng vào thần tính của Thánh-linh; thứ hai, bằng cách liên kết công việc của Thánh-linh với công việc của Chúa Giê-xu; và thứ ba, mô tả nhiệm vụ của Thánh-linh trong Hội-thánh. Thánh-linh là Đức Chúa Trời Lời Chúa Giê-xu dạy các môn đệ của Ngài giúp ta thấy rõ điểm đầu tiên này Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh-linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế. Ma-thi-ơ 2816-20. Ta lưu ý câu " hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Thánh-linh mà làm phép báp tem cho họ". Lúc ấy các tân môn đệ của Chúa Giê-xu vừa xa rời thần tượng, rũ bỏ quá khứ thờ nhiều tà thần, rất cảm kích khi được tuyên xưng đức tin qua lễ báp tem. Vì khi ấy họ công khai tin Chúa là Chân Thần duy nhất. Nhưng Chúa Giê-xu cũng đã giới thiệu cho các môn đệ một tri thức sâu hơn phong phú hơn về Chân Thần, đó là Đức Chúa Trời có Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Thánh-linh – một Đức Chúa Trời nhưng có ba đấng bậc. Đức Chúa Cha là Đấng thiêng liêng cao cả thì không cần bàn cãi nhiều. Chúa Giê-xu đã dạy các môn đệ Ngài cầu nguyện "Lạy Cha chúng con ở trên trời, danh Cha được tôn thánh." Xưng nhận như thế là đủ hiểu Cha rất thiêng liêng và cao cả. Chúa Giê-xu tự xác nhận thần tính của Ngài. Đại mạng lệnh là bằng cớ đầy đủ về điểm này "Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta." Vì vậy Chúa mới có thẩm quyền sai mọi người đi truyền giáo. Ngài lại hứa là sẽ cùng đi với họ khắp nơi cho đến khi tận thế. Lệnh Chúa Giê-xu ban truyền còn nói đến Thánh-linh, như là mối nối giữa Cha và Con. Trong câu kể trên, ta phải hiểu Thánh-linh cũng là Đức Chúa Trời. Khi Chúa Giê-xu dạy nhân danh Cha Con và Thánh-linh để làm báp tem, ta phải hiểu rằng ba vị nêu danh đều là Đức Chúa Trời cả. Nhưng vẫn chỉ là một Chân Thần mà có ba ngôi vị. Thánh-linh như thế là một Đấng bậc, một ngôi vị xác định, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời trong Kinh-thánh nói đến là Đức Chúa Trời có ngôi vị, có cá thể. Nếu Đức Chúa Trời, đấng đã lựa chọn ông Áp-ra-ham và gia đình ông ta để phục vụ Ngài, dẫn từng bước họ đi , trả lời khi họ cầu xin, và ban cho họ Lời của Ngài, không phải là một Đấng bậc, một ngôi vị, thì Đức Chúa Trời ấy không xác thực. Yêu thương, chọn lựa, cảm xúc, suy nghĩ, hiểu biết, lập kế hoạch, chăm sóc, nhớ là những phẩm tính của một cá thể, một ngôi vị. Đức Chúa Trời có tất cả những phẩm tính này. Thánh-linh là một ngôi vị, là một cá thể, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Thánh-linh tiếp tục công nghiệp của Chúa Giê-xu Những lời sau cùng của Chúa Giê-xu cho các môn đệ Ngài có câu này "Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta. Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi." Giăng 1415-17 Như thế Thánh-linh là Đấng Yên Ủi mà Chúa Giê-xu đưa đến, việc làm của Thánh-linh là "Nhưng Đấng Yên ủi, tức là Thánh-linh mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi." Giăng 1426. Dạy bảo và nhắc cho nhớ là công việc của một cá thể, một ngôi vị như Chúa Giê-xu nhưng không còn giới hạn trong thể xác. Khi Chúa Giê-xu ở Sê-sa-rê Phi-líp với các môn đệ thì lúc ấy Ngài không thể cùng ở Bê-tha-ni trong nhà Ma-thê và Ma-ri được. Đây là một phần giới hạn của Chúa Giê-xu khi Ngài bằng lòng vào thế gian làm người, đó là mỗi lần chỉ có mặt ở một nơi mà thôi. Thánh-linh thì khác, dù cũng có ngôi vị như Chúa Giê-xu nhưng không bị giới hạn không gian và thời gian. Vì thế khi giáo hội tăng trưởng và lan rộng khắp nơi Thánh-linh có thể có mặt mọi nơi cùng một lúc. Như thế Thánh-linh tiếp tục công nghiệp của Chúa Giê-xu và hiệu quả hơn. Như thế Thánh-linh là một cá thể, một ngôi vị, vì Ngài cũng chính là Đức Chúa Trời. Ngài là Đấng tiếp tục công nghiệp trên đất của Chúa Giê-xu. Thánh-linh phục vụ Hội-thánh Trong lời chúc phước cho cộng đồng dân Chúa tại thành Cô-rinh, Sứ đồ Phaolô đã nói "Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Thánh-linh ở với anh em hết thảy!" 2 Cô-rinh-tô 1314. Ta thấy câu này nói đến từng cá nhân của Ba-ngôi Đức Chúa Trời. Ai có thể tha thứ và ban ân huệ ngoài ra Chúa Giê-xu? Ai có thể biểu lộ tình thương của Ngài ngoài một cá thể thần linh như Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Con Ngài xuống thế gian để hoàn thành việc cứu rỗi cho chúng ta? Và ai có thể thúc đẩy mối tương giao giữa con dân Chúa ngoại trừ Thánh-linh là Đấng làm cho Hội-thánh kết chặt với nhau trong một kinh nghiệm chung về lòng tin và sự tha thứ? Mối tương giao mà Thánh-linh làm cho phát sinh chính là niềm vui mà anh chị em tin Chúa cùng cảm thấy. Đây không phải tương giao vì cùng chung văn hóa, cùng quan điểm chính trị, hay cùng thỏa thuận trong một cuộc thương mãi nào. Đây cũng không phải một cuộc tương giao vì cùng sở thích và quan niệm về kiểu y phục hay mode ăn mặc. Đây chính là tương giao thân thiết trong niềm tin, trong việc tôn thờ Chúa, trong việc tuân hành lời Chúa dạy và trong nhiệm vụ. Cuộc tương giao như thế chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tạo ra và duy trì cho mà thôi. Đây chính là tương giao của Thánh-linh, cá nhân Thánh-linh, Thánh-linh có ngôi vị và đấng bậc, hoạt động trong tâm hồn những người đã tin Đức Chúa Trời nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu. Để kết thúc, có ba điều ta cần nói 1. Vì Thánh-linh là Đức Chúa Trời, nên những gì trong Kinh-thánh nói về phẩm tính của Đức Chúa Trời đều có thể áp dụng cho Thánh-linh được. Những phẩm tính như tình thương, thánh khiết, quyền năng, thiện lành, thành tín của Đức Chúa Trời chính cũng là của Thánh-linh. Thánh-linh là Đấng tiếp tục công nghiệp đã được Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu khởi đầu, cũng có cùng quan tâm và khả năng. 2. Vì Thánh-linh thực hiện và tiếp tục công nghiệp của Chúa Giê-xu, chúng ta có thể coi như Chúa Giê-xu hiện diện giữa vòng chúng ta là người tin Chúa để đáp ứng mọi nhu cầu căn bản của chúng ta. Thánh-linh nhắc nhở chúng ta về tình thương của Chúa Giê-xu, thực hiện sự tha thứ của Chúa Giê-xu cho chúng ta, cho chúng ta được tràn đầy quyền năng của Chúa Giê-xu, sửa dạy chúng ta bằng cái khôn ngoan và chân lý của Chúa Giê-xu, lấy niềm an ủi của Chúa Giê-xu an ủi chúng ta. Nghĩa là chính người của Chúa Giê-xu với cùng quyền năng và thương cảm đang có mặt giữa chúng ta. Ngài dạy chúng ta qua lời Kinh-thánh, Ngài uốn nắn ý chí của chúng ta cho thuận theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. 3. Vì Thánh-linh phục vụ trong Hội-thánh, nên chúng ta có thể có mối tương giao với Đức Chúa Trời và với anh em chị em cùng niềm tin. Thánh-linh nâng chúng ta lên cao hơn những thành kiến, làm cho quân bình những gì ta thích và không thích, gắn bó chúng ta bằng tình thương và quan tâm của người tin Chúa. Chúng ta hãy vui hưởng mối tương giao Thánh-linh đem đến vì Ngài làm cho mọi ngăn cách được san bằng, và dạy chúng ta rằng chúng ta là một khối qua quyền năng của Ngài. Vì Thánh-linh là Đức Chúa Trời, Ngài còn có cá tính riêng còn hơn chúng ta nữa. Vì Ngài chính là Đức Chúa Trời nên ngày đêm làm việc để biến hóa chúng ta thành những con người mà Đức Chúa Trời muốn thấy. TinLanh Twitter

chư vị chân linh là gì