chăm sóc bệnh nhân thở máy qua nội khí quản

Bệnh viêm thanh quản khá phổ biến ở nước ta. Vì vậy khi bạn có kiến thức về bệnh cũng như cách chăm sóc sức khỏe sẽ là một lợi thế. Nắm rõ một số vấn đề khi viêm thanh quản kiêng ăn gì sẽ giúp bạn mau chóng khỏi bệnh. Khái quát về bệnh viêm thanh quản 2. Chăm sóc Người bệnh thở không xâm nhập qua mặt nạ mũi miệng. - Kích cỡ mặt nạ phải vừa với mặt Người bệnh. - Khi cố định mặt nạ không được chặt quá dễ gây loét chỗ tì đè (sống mũi) hoặc lỏng quá gây dò khí ra ngoài làm giảm áp lực đường thở. - Cố CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH MỞ KHÍ QUẢN. CNĐD Nguyễn Thị Thúy Hằng – Khoa Tai mũi họng. Mở khí quản là vết rạch khí quản tạo ra lỗ mở khí quản ra da, đặt canyl Krisaberg tạm thời hay vĩnh viễn, cho phép thông khí đi qua khi tắc nghẽn đường hô hấp trên giúp chất tiết ở khí quản ra ngoài, giúp việc cai máy thở (do Với việc sử dụng HFNC, tỷ lệ đặt lại ống nội khí quản trong vòng 72 giờ kể từ khi rút nội khí quản thấp hơn (4,9% so với 12%) so với nhóm thở oxy thông thường. Đối với những bệnh nhân cần đặt lại nội khí quản, HFNC không ảnh hưởng đáng kể đến thời gian Cây xoài cổ thụ trong vườn nhà bà em cũng sai trĩu những quả là quả, trông thật đẹp mắt và hấp dẫn! Nội dung chính Bài văn tả cây mít cực hay 2 modus dari data pada tabel diatas adalah. Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Lê Đức Hoàng - Bác sĩ Hồi sức cấp cứu - Khoa Hồi sức Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Nội soi phế quản ở bệnh nhân thở máy là kỹ thuật khó, có thể giúp ích nhiều trong việc chẩn đoán và điều trị các bệnh lý ở phổi. 1. Tìm hiểu về nội soi phế quản Nội soi phế quản là gì? Đây là một thủ thuật dùng ống soi để thăm khám bên trong cây phế quản giúp chẩn đoán, điều trị các bệnh liên quan về phổi nhưMô tả tổn thương giải phẫu bên trong của cây phế bệnh phẩm để xác định nguyên nhân, phân biệt, tiên lượng bệnh. Bệnh lý ác tínhChẩn đoán ung thư khí phế giai đoạn ung thư phế dõi sau điều trị ung thư phế giá những người bệnh có tổn thương ác tính vùng đầu, giá trong trường hợp có ung thư thực khuẩnViêm phổi tái phát hoặc cải thiện chậm, nhiễm trùng ở người bệnh suy giảm miễn dịch, mủ màng phổi, áp xe phổi,...Các chỉ định khácXẹp phổi, bệnh phổi kẽ, ho máu, ho kéo dài không rõ nguyên nhân, hít phải dị vật, chấn thương ngực, tràn dịch màng phổi dịch tiết chưa rõ nguyên nhân, đánh giá người bệnh sau phẫu thuật phổi, xác định chính xác vị trí ống nội khí quản, đánh giá các tổn thương sau đặt nội khí quản hoặc mở khí quản, hẹp khí quản, khàn tiếng do liệt dây thanh, nghi rò khí quản-thực quản hoặc khí phế quản-màng phổi, tràn khí màng phổi kéo dài, .... Người bệnh ung thư phế quản được chỉ định nội soi phế quản 3. Chống chỉ định Rối loạn tim mạch rối loạn nhịp tim nặng, suy tim nặng, nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực gần đây hoặc không ổn định,...Có rối loạn về đông bệnh không hợp tác. 4. Quy trình nội soi phế quản Bước 1 Phương tiện, dụng cụ và vật tư tiêu haoNguồn sáng bóng halogen hoặc xenon, bộ vi xử trí hình ảnhCamera, màn hình video, đầu ghi video hoặc in ảnh soi phế quản sợi kìm sinh thiết, kẹp lấy dị vật, bàn chải để lấy bệnh phẩm tìm vi khuẩn và tế bào, kim chọc nối dây máy thở với ống nội khí quản hình chữ hút, máy theo dõi, hệ thống oxy, dụng cụ đặt nội khí quản, mở khí quản, các dụng cụ và thuốc cấp cứu cụ rửa ống soi chuyên dụng, tử đựng ống soi chuyên 2 Để chế độ thông khí nhân tạo IPPV, oxy 100%. Dùng thuốc an thần, giãn cơ nếu tê khí phế quản với lidocain 2% bơm qua ống nội khí quản hoặc canun mở khí đoạn ống mềm hình chữ L, nối giữa ống máy thở và ống nội khí quản hoặc canun mở khí quản có lỗ để đưa ống soi qua đảm bảo thông khí nhân tạo trong quá trình ống soi phế quản mềm có đường kính ngoài £2/3 đường kính trong của ống. Sử dụng ống nội soi phế quản mềm có đường kính phù hợp Bước 3 Thực hiện kỹ thuậtTư thế người bệnh nằm ngửa. Thở máy với FiO2 100%.Gây tê phế quản với xylocain 2% bơm qua ống nội khí quản hoặc canun mở khí soi phế quản ở người bệnh thở máy qua nội khí quản thì luồn ống soi trong lòng nội khí quản, khi soi ở người bệnh thở máy qua canun mở khí quản thì nên soi qua đường mũi đi cạnh canun đi xuống khí quản để hạn chế tổn thương ống soi phải đảm bảo ống soi luôn đi giữa lòng khí phế quản để hạn chế tổn thương thành khí phế tắc khi soi phế quản soi bên lành trước để không làm lây nhiễm bệnh sang bên phổi lành. Nếu người bệnh nặng, hoặc hợp tác kém tiên lượng không soi được đầy đủ cả 2 bên thì soi bên bệnh trước. Nếu không rõ bên tổn thương, hoặc tổn thương lan tỏa cả 2 bên thì nên soi bên phải quá trình soi, cần theo dõi chặt các thông số SpO2, mạch, huyết áp. Tạm dừng soi khi SpO2 < 92%. Tiến hành thông khí cho đến khi SpO2 ≥ 98% thì bắt đầu soi soi cần quan sát kỹ lưỡng các tổn thương trên đường đi, lần lượt soi từ các lỗ PQ từ trên xuống dưới để tránh bỏ sót tổn thương. Sau khi quan sát toàn bộ các các lỗ PQ 2 bên, đánh giá toàn diện các tổn thương mới bắt đầu tiến hành các kỹ thuật lấy bệnh phẩm. Tùy vào tổn thương trên phim phổi và hình ảnh qua soi phế quản mà có thể tiến hành các kỹ thuật lấy bệnh phẩm Rửa phế quản phế nang, sinh thiết khối u phế quản, Chọc hút xuyên thành khí phế quản, không sinh thiết xuyên vách phế quản khi soi phế quản ở người bệnh thở khi soi xong theo dõi đưa dần các chỉ số máy thở về thông số trước soi. 5. Theo dõi Trong quá trình soi theo dõi tình trạng mạch, huyết áp, độ bão hòa oxy máu, điện tim. Bác sĩ soi quan sát liên tục tình trạng chung của người bệnh để phát hiện xử trí ngay các biến chứng. 6. Tai biến và xử lí Thiếu oxy máuKhi nội soi phế quản ống mềm thì phân áp Oxy ở máu động mạch PaO2 có thể giảm đi 10 mmHg, SaO2 giảm đi từ 2%-5% hoặc nhiều hơn. Nếu có tình trạng suy hô hấp cấp phải ngừng ngay cuộc soi, tăng lưu lượng oxy, dùng các thuốc giãn phế quản qua đường khí dung hoặc tiêm truyền khi thấy biểu hiện co thắt phế Chảy máuBiến chứng chảy máu thường xảy ra khi sinh thiết. Để đề phòng biến chứng chảy máu nặng khi làm sinh thiết u hoặc niêm mạc phế quản, nên làm sinh thiết thử lần thứ nhất bấm mảnh nhỏ và nông để xem mức độ chảy máu, nếu không nguy hiểm thì mới sinh thiết thực sự. Khi có chảy máu thì bơm dung dịch adrenalin 0,01% có tác dụng làm giảm chảy máu ở chỗ sinh thiết phế quản, tiêm bắp morphin, dùng đầu ống soi để bịt lỗ PQ có chảy máu, nếu không kết quả phải rút ống soi đặt nội khí quản, liên hệ nút mạch cấp Nhiễm khuẩnNếu sau soi người bệnh có sốt, ho khạc đờm màu đục thì nên cấy đờm tìm vi khuẩn gây bệnh. Cấy đờm tìm vi khuẩn gây bệnh nếu người bệnh xuất hiện nhiễm khuẩn Tràn khí màng phổiKhông nên làm sinh thiết xuyên vách phế quản ở những người bệnh đang có thở máy do nguy cơ tràn khí màng phổi rất có tràn khí màng phổi giảm áp lực máy thở. Mở màng phổi hút dẫn lưu khí liên Các biến chứng và tai biến khácDị ứng với thuốc tê lidocain cần làm test với thuốc tê trước khi soi phế quản. Khi xuất hiện các dấu hiệu dị ứng lidocain tiêm bắp dimedrol 10mg x 1 ống, methylprednisolon 40mg x 1 lọ tiêm tĩnh mạch.Gãy bàn chải hoặc kìm sinh thiết trong lòng phế quản dùng kìm sinh thiết khác để gắp đầu gẫy ra bệnh thở máy cần được bác sĩ hồi sức cấp cứu theo dõi thường xuyên nếu không sẽ dẫn đến tình trạng tắc đờm, viêm phổi, làm nặng thêm tình trạng bệnh nhân dẫn đến nguy cơ suy hô hấp và tử vong. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Nội soi phế quản ống mềm Những điều cần biết Vai trò của nội soi phế quản trong chẩn đoán bệnh lý hô hấp Quy trình và các rủi ro có thể gặp khi nội soi phế quản Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Lê Đức Hoàng - Bác sĩ Hồi sức cấp cứu - Khoa Hồi sức Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Chăm sóc lỗ mở khí quản cho bệnh nhân là việc cần thực hiện hằng ngày để bảo vệ sức khỏe của người bệnh. Các công việc chăm sóc bao gồm hút đờm, thay băng, rửa lỗ mở khí quản, thay hoặc vệ sinh canuyn và khí dung chống bội nhiễm tại chỗ. 1. Sơ lược về thủ thuật mở khí quản Mở khí quản là việc tạo một đường thông khí tạm thời hoặc vĩnh viễn nhằm đưa không khí vào thẳng khí quản mà không qua đường mũi họng. Thủ thuật này được thực hiện khi xảy ra hiện tượng tắc nghẽn đường hô hấp trên, giúp lấy chất tiết ở khí quản, giúp cai máy thở và giúp thở nhân tạo dài ngày. Nơi mở khí quản thường ở đốt 2 - 3 - 4 vòng sụn khí định mở khí quảnCác trường hợp gây trở ngại đường hô hấp trên, cản trở sự thông khí từ mũi tới thanh hầu như vết thương vùng mũi, thanh quản; khối u vùng mũi, mặt; bệnh bạch hầu thanh quản hoặc các dị vật đường khí quản;Các tổn thương ảnh hưởng tới trung tâm hô hấp và khả năng lưu thông không khí như chấn thương sọ não, dập não, hôn mê sâu; biến chứng sau mổ áp xe não, u hố sau, u não; viêm màng não nặng ảnh hưởng tới hô hấp do tăng tiết đờm dãi;Các phẫu thuật lồng ngực ảnh hưởng tới hô hấp và sự co giãn phế nang như phẫu thuật cắt bỏ thùy phổi, bóc tách màng phổi và một số phẫu thuật ở lồng ngực, trung thất;Cơn viêm cấp trong giãn phế quản gây ngạt thở nặng ở những nơi không đủ điều kiện đặt nội khí quản;Trường hợp khác Dự phòng ngạt thở, chuẩn bị cho các phẫu thuật lớn như khối u ở hạ họng. Bệnh nhân chấn thương sọ não cần chỉ định thực hiện mở khí quản Lợi ích khi thực hiện thủ thuật mở khí quảnGiảm khoảng chết của bộ máy hô hấp, giúp đưa không khí ngoài trời vào cơ thể dễ dàng với các động tác thở không cần gắng sức;Tăng hiệu quả của việc hút đờm, dãi;Giúp đưa thuốc, oxy trực tiếp xuống đường hô hấp dưới tốt hơn;Có canuyn thuận tiện cho việc hô hấp hỗ trợ, giảm sức cản đường thở và đảm bảo thể tích khí lưu thông;Giảm tình trạng ứ trệ tuần hoàn máu trong hệ thống tĩnh thuật mở khí quản có thể gây ra một số biến chứng như nghẹt đàm, viêm phổi, nhiễm trùng da quanh ống, sút ống, xẹp phổi, hẹp khí quản, rò khí thực quản. Chăm sóc lỗ mở khí quản gồm các công việc gì? Lỗ mở khí quản còn gọi là lỗ thở là một đường thông khí đưa không khí đi vào thẳng khí quản mà không qua đường mũi họng. Lỗ thở này có thể tồn tại tạm thời hoặc vĩnh viễn. Trong trường hợp mở khí quản lâu dài, người bệnh hoặc người thân phải biết cách vệ sinh, chăm sóc để tránh nhiễm bệnh viện, chăm sóc lỗ mở khí quản bao gồm việc thay băng gạc, vệ sinh lỗ mở khí quản, thay hoặc vệ sinh canuyn và khí dung chống bội nhiễm tại chỗ. Trường hợp chăm sóc tại nhà bao gồm việc thay băng, rửa lỗ mở khí quản, thay canuyn hoặc vệ sinh canuyn, có chế độ ăn uống, sinh hoạt và vận động phù hợp, tái khám đúng hẹn. Chăm sóc lỗ mở khí quản tại nhà cần phải thận trọng Chuẩn bị Nhân sự thực hiện Điều dưỡng hoặc kỹ thuật viên thực hiện các công việc thay băng, rửa lỗ mở khí quản và khí dung; bác sĩ thực hiện thay hoặc vệ sinh canuyn;Phương tiện Bộ dụng cụ thay băng, bộ dụng cụ hút đờm, bộ dụng cụ thay canuyn mở khí quản, máy và mặt nạ khí dung;Bệnh nhân Được giải thích về thủ thuật để hợp tác;Hồ sơ bệnh án Ghi rõ chỉ định và thời gian thực hiện thủ thuật. Tiến hành thủ thuật Sau khi kiểm tra hồ sơ và kiểm tra người bệnh, thực hiện chăm sóc lỗ mở khí quản như sauHút đờm, thay băng và rửa vết mổHút đờm Hút sạch đờm trước khi chăm sóc lỗ mở khí quản;Thay băng, rửa vết mổ mở khí quản 2 - 3 lần trong ngày đầu tiên. Sau đó, thực hiện 1 lần/ngày. Cách thực hiện như sauTháo bỏ băng, gạc cũ;Sát trùng lỗ mở khí quản bằng cồn iod, sau đó sát trùng lại bằng cồn 70°;Vệ sinh chất tiết, dịch nhầy và mủ ở lỗ mở khí quản;Sát trùng lại toàn bộ trước khi thay băng, gạc mới;Dùng gạc mới phủ kín quanh lỗ ống mở khí quản;Dùng dây gạc để buộc cố định canuyn khí canuynBác sĩ thực hiện cần rửa tay sạch sẽ;Sau khi cố định ống ngoài, thực hiện mở khóa ống trong, rút nhẹ nòng trong của canuyn ra;Ngâm nòng ống vào cốc nước oxy già vài phút để làm tan máu, dịch đờm, rồi dùng bàn chải nhỏ chà lại thật sạch. Với canuyn bằng nhựa thì đem ngâm vào dung dịch dakin hoặc benzalkonium 1/750 trong tối thiểu 2 tiếng, sau đó tráng lại bằng nước cất. Nếu là canuyn bạc Krishaber thì đem hấp, sấy khô hoặc đun sôi để tiệt trùng;Lau lại canuyn bằng gạc, đặt ống lại và vặn khóa cố định nòng trong của canuyn;Lấy gạc hình chữ Y bằng ống thông;Dùng que bông tẩm thuốc sát khuẩn, nhẹ nhàng lau sạch vết lỗ mở khí quản sau 30 giây, dùng tăm bông tẩm nước muối sinh lý lau lại vết mở lỗ khí quản;Băng lại vải gạc hình chữ Y sạch cho ống thông;Khi dây cột canuyn bị lỏng hoặc bẩn thì tháo ra buộc lại cho vừa hoặc đổi dây khác. Lỗ mở khí quản cần được thay băng thường xuyên mỗi ngày Tai biến và cách xử trí Tụt canuyn Xử trí theo phác đồ điều trị chuẩn;Tắc đờm Đờm quánh do không khí khô, bệnh nhân bị mất nước. Cách xử trí là bồi phụ đủ nước cho bệnh nhân, làm ẩm không khí thở vào bằng cách làm ẩm miếng gạc phủ lên canuyn hoặc với trường hợp bệnh nhân thở máy thì cần kiểm tra liên tục lượng nước trong bình làm ẩm;Nhiễm khuẩn khí phế quản phổi Xử trí bằng cách lấy dịch phế quản làm kháng sinh đồ, sau đó cho bệnh nhân sử dụng kháng sinh phổ rộng và điều chỉnh lại sau khi có kết quả kháng sinh đồ. Lưu ý cho trường hợp chăm sóc lỗ mở khí quản tại nhà Với các trường hợp chăm sóc bệnh nhân có lỗ mở khí quản tại nhà, cần lưu ý những vấn đề sauThay băng và rửa vết mổ mở khí quản 1 lần/ngày;Quan sát vùng da quanh lỗ mở khí quản khi thay băng, nếu thấy có dấu hiệu da sưng, đỏ, chảy máu, chảy mủ,... thì cho bệnh nhân tái khám ngay;Kiểm tra vị trí ống mở khí quản, kiểm tra dây cột mở khí quản, tái khám ngay nếu ống mở khí quản bị tụt hoặc rơi ra ngoài;Kiểm tra màu sắc, tính chất đờm, nhớt trong ống mở khí quản mỗi khi thay băng, tái khám ngay nếu đờm nhớt tăng, có lẫn máu, mủ hoặc bị tắc ống, nghẹt đờm;Che lỗ mở khí quản bằng một miếng gạc ẩm để tránh bụi, dị vật rơi vào đường thở;Việc thay hoặc vệ sinh canuyn được thực hiện bởi bác sĩ tại các cơ sở y tế có đầy đủ trang thiết bị cấp cứu;Về chế độ sinh hoạt cho bệnh nhân có lỗ mở khí quảnNên uống nhiều nước, bổ sung thêm rau xanh và trái cây;Sử dụng máy tạo hơi nước trong phòng để tránh viêm phổi, đặc biệt là trong mùa đông;Khi ngủ cần tránh để chăn hoặc ga giường bịt lỗ thở;Khi tắm nên che chắn lỗ thở, tránh nước bắn vào đường thở gây ho, sặc hoặc ngạt thở;Luyện tập thể thao với các bài tập nhẹ nhàng, phù hợp với sức khỏe. Dùng máy phun sương tạo độ ẩm cho người bệnh để tránh viêm phổi Bệnh nhân có lỗ mở khí quản nên tái khám ngay nếu có 1 trong các triệu chứng như Khó thở, sốt cao, ho nhiều, đờm nhớt tăng nhiều hoặc có lẫn máu mủ, vùng da xung quanh lỗ mở khí quản bị sưng, nóng, đỏ, đau, chảy máu, mủ, tụt hoặc rơi ống mở khí quản,... XEM THÊM Những điều cần biết về khai khí quản Tiếp cận ban đầu bệnh nhân đa chấn thương Chỉ định mở khí quản cấp cứu Chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí quản là công việc cần thiết nhằm giúp bảo vệ và cải thiện sức khỏe cho người bệnh. Nhưng chăm sóc như thế nào để đem lại hiệu quả cho người bệnh? Mời bạn theo dõi nội dung sau đây! Nội dung1 Đặt nội khí quản là gì? Mục đích của đặt nội khí quản Những trường hợp cần phải đặt nội khí Khai thông hay bảo vệ đường thở Bệnh nhân sẽ được chỉ định đặt nội khí quản khi cần tạo điều kiện hút đàm, chất tiết hoặc các vấn đề như Thông khí nhân tạo xâm nhập Thủ thuật đặt nội khí quản còn được dùng trong các trường hợp2 Các biến chứng thường gặp khi đặt nội khí Trong khi đặt nội khí Khi lưu ống nội khí Sau khi rút nội khí quản3 Chi tiết cách chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí Chăm sóc lỗ mở khí quản gồm các công việc gì? Chuẩn Tiến hành 4 Một số lưu ý khi chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí quản tại nhà Đặt nội khí quản là việc luồn ống nội khí quản qua đường mũi hoặc đường miệng vào trong khí quản cho bệnh nhân. Trong trường hợp bệnh nhân cấp cứu, thủ thuật cần thực hiện nhanh chóng và kịp thời để không gây ra tai biến do chậm khai thông đường thở. Mục đích của đặt nội khí quản Duy trì hô hấp khi bệnh nhân bị suy hô hấp. Hỗ trợ hô hấp khi bệnh nhân bị tắc nghẽn đường thở. Bảo vệ đường thở khi bệnh nhân hôn mê hoặc mất phản xạ đường thở. Kiểm soát đường thở khi thực hiện phẫu thuật cần mê nội khí quản. Những trường hợp cần phải đặt nội khí quản Khai thông hay bảo vệ đường thở Bệnh nhân sẽ được chỉ định đặt nội khí quản khi cần tạo điều kiện hút đàm, chất tiết hoặc các vấn đề như Bít tắc đường hô hấp cấp tính do co thắt thanh quản, có dị vật đường thở,… Mất phản xạ bảo vệ đường thở do chấn thương vùng đầu, ngừng tuần hoàn,… Thông khí nhân tạo xâm nhập Thủ thuật đặt nội khí quản còn được dùng trong các trường hợp Gây mê đường hô hấp cho bệnh nhân. Hỗ trợ bệnh nhân suy hô hấp giảm oxy máu do viêm phổi, phù phổi. Tăng khí carbonic do bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính COPD, hen phế quản,… >> Xem thêm Dịch vụ điều dưỡng tại nhà – Giảm áp lực cuộc sống bận rộn Bệnh nhân đặt nội khí quản cần có chế độ chăm sóc đặc biệt để có thể nhanh chóng hồi phục Các biến chứng thường gặp khi đặt nội khí quản Trong khi đặt nội khí quản Rách hầu họng hay khí quản. Chảy máu. Thiếu oxy. Tổn thương dây thanh âm. Rách môi hay lưỡi do dùng lực quá mạnh. Nôn và dịch dạ dày vào đường hô hấp dưới. Đặt ống nội khí quản quá sâu. Rối loạn nhịp tim. Tăng áp lực nội sọ. Tràn khí màng phổi. Tổn thương, gãy răng. Đặt nhầm vào thực quản. Chấn thương cột sống cổ. Tụt huyết áp và nhịp tim chậm. Khi lưu ống nội khí quản Tắc ống nội khí quản. Tuột ống hoặc vào phế quản. Tuột máy thở. Loét môi, lưỡi. Sau khi rút nội khí quản Hẹp khí quản. Loét đường thở. U hạt thanh quản. Khàn tiếng/ Mất tiếng có thể tự khỏi sau 5 – 7 ngày. Nếu không thực hiện đặt ống nội khí quản sẽ dẫn đến biến chứng gì? Nếu không đặt nội khí quản tình trạng người bệnh sẽ trở nên nghiêm trọng hơn và có thể tử vong. Vậy, chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí quản như thế nào để không để họ rơi vào tình trạng nguy hiểm? Chi tiết cách chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí quản Chăm sóc lỗ mở khí quản gồm các công việc gì? Lỗ mở khí quản còn gọi là lỗ thở là một đường thông khí đưa không khí đi vào thẳng khí quản mà không qua đường mũi họng. Lỗ thở này có thể tồn tại tạm thời hoặc vĩnh viễn. Trong trường hợp mở khí quản lâu dài, người bệnh hoặc người thân phải biết cách vệ sinh, chăm sóc để tránh nhiễm trùng. Tại bệnh viện, chăm sóc lỗ mở khí quản bao gồm việc thay băng gạc, vệ sinh lỗ mở khí quản, thay hoặc vệ sinh canuyn và khí dung chống bội nhiễm tại chỗ. Trường hợp chăm sóc tại nhà bao gồm việc thay băng, rửa lỗ mở khí quản, thay canuyn hoặc vệ sinh canuyn, có chế độ ăn uống, sinh hoạt và vận động phù hợp, tái khám đúng hẹn. Công tác chăm sóc và vệ sinh cho bệnh nhân đặt nội khí quản đòi hỏi phải có chuyên môn và kĩ thuật Chuẩn bị Nhân sự thực hiện Điều dưỡng hoặc kỹ thuật viên thực hiện các công việc thay băng, rửa lỗ mở khí quản và khí dung; bác sĩ thực hiện thay hoặc vệ sinh canuyn; Phương tiện Bộ dụng cụ thay băng, bộ dụng cụ hút đờm, bộ dụng cụ thay canuyn mở khí quản, máy và mặt nạ khí dung; Bệnh nhân Được giải thích về thủ thuật để hợp tác; Hồ sơ bệnh án Ghi rõ chỉ định và thời gian thực hiện thủ thuật. >> Xem thêm Dịch vụ chăm sóc bệnh nhân Tiến hành Sau khi kiểm tra hồ sơ và kiểm tra người bệnh, thực hiện chăm sóc lỗ mở khí quản như sau Hút đờm, thay băng và rửa vết mổ Hút đờm Hút sạch đờm trước khi chăm sóc lỗ mở khí quản; Thay băng, rửa vết mổ mở khí quản 2 – 3 lần trong ngày đầu tiên. Sau đó, thực hiện 1 lần/ngày. Cách thực hiện như sau Tháo bỏ băng, gạc cũ; Sát trùng lỗ mở khí quản bằng cồn iod, sau đó sát trùng lại bằng cồn 70°; Vệ sinh chất tiết, dịch nhầy và mủ ở lỗ mở khí quản; Sát trùng lại toàn bộ trước khi thay băng, gạc mới; Dùng gạc mới phủ kín quanh lỗ ống mở khí quản; Dùng dây gạc để buộc cố định canuyn khí quản. Thay canuyn Bác sĩ thực hiện cần rửa tay sạch sẽ; Sau khi cố định ống ngoài, thực hiện mở khóa ống trong, rút nhẹ nòng trong của canuyn ra; Ngâm nòng ống vào cốc nước oxy già vài phút để làm tan máu, dịch đờm, rồi dùng bàn chải nhỏ chà lại thật sạch. Với canuyn bằng nhựa thì đem ngâm vào dung dịch dakin hoặc benzalkonium 1/750 trong tối thiểu 2 tiếng, sau đó tráng lại bằng nước cất. Nếu là canuyn bạc Krishaber thì đem hấp, sấy khô hoặc đun sôi để tiệt trùng; Lau lại canuyn bằng gạc, đặt ống lại và vặn khóa cố định nòng trong của canuyn; Lấy gạc hình chữ Y bằng ống thông; Dùng que bông tẩm thuốc sát khuẩn, nhẹ nhàng lau sạch vết lỗ mở khí quản sau 30 giây, dùng tăm bông tẩm nước muối sinh lý lau lại vết mở lỗ khí quản; Băng lại vải gạc hình chữ Y sạch cho ống thông; Khi dây cột canuyn bị lỏng hoặc bẩn thì tháo ra buộc lại cho vừa hoặc đổi dây khác. Tai biến và cách xử trí Tụt canuyn Xử trí theo phác đồ điều trị chuẩn; Tắc đờm Đờm quánh do không khí khô, bệnh nhân bị mất nước. Cách xử trí là bồi phụ đủ nước cho bệnh nhân, làm ẩm không khí thở vào bằng cách làm ẩm miếng gạc phủ lên canuyn hoặc với trường hợp bệnh nhân thở máy thì cần kiểm tra liên tục lượng nước trong bình làm ẩm; Nhiễm khuẩn khí phế quản phổi Xử trí bằng cách lấy dịch phế quản làm kháng sinh đồ, sau đó cho bệnh nhân sử dụng kháng sinh phổ rộng và điều chỉnh lại sau khi có kết quả kháng sinh đồ. >> Xem thêm Dịch vụ người nuôi bệnh – Niềm hy vọng của mọi gia đình Đối với bệnh nhân đặt nội khí quản tại nhà cần phải hết sức thận trọng Một số lưu ý khi chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí quản tại nhà Khi bạn lập kế hoạch chăm sóc bệnh nhân đặt nội khí quản tại nhà thì bạn cần lưu ý về những vấn đề sau Mỗi ngày cần phải thay băng và rửa vết đặt nội khí quản 1 lần; Theo dõi vùng da quanh lỗ đặt nội khí quản khi thay băng, trường hợp xuất hiện tình trạng sưng, đỏ, chảy mủ, chảy máu,… thì người bệnh cần phải được tái khám ngay; Kiểm tra lại dây cột đặt khí quản và vị trí ống đặt khí quản, nếu như bị tụt hoặc rơi ra ngoài cần báo cho bác sĩ hoặc đi tái khám lại ngay; Trước tiên bạn hãy kiểm tra tính chất đờm, màu sắc, nhớt trong ống đặt nội khí quản hay khi thay băng. Trường hợp nếu thấy tình trạng đờm nhớt tăng, có lần mủ, máu hoặc bị nghẹt đờm, tắc ống thì cần phải đi tái khám ngay; Lấy miếng gạc ẩm để che lỗ đặt nội khí quản nhằm giúp để tránh bụi, hay dị vật rơi vào đường thở; Người thực hiện tha, vệ sinh canuyn cần phải được thực hiện bởi y, bác sĩ tại các cơ sở y tế được trang bị đầy đủ các thiết bị cấp cứu. >> Xem thêm Dịch vụ chăm sóc bệnh nhân 24/24 uy tín, đáng tin cậy Về chế độ sinh hoạt khi chăm sóc người bệnh đặt nội khí quản Chế độ ăn uống đa dạng, nên bổ sung nhiều nước, thêm các loại trái cây, rau xanh tốt cho sức khỏe; Dùng máy tạo hơi nước trong phòng sẽ giúp bạn tránh bị viêm phổi, nhất là trong mùa đông; Nhất là khi ngủ cần tránh bịt lỗ thở bởi chăn hoặc ga giường; Hãy che chắn lỗ thở khi tắm giúp tránh nước bắn vào đường thở khiến cho người bệnh có thể bị ho, sặc hoặc ngạt thở; Tập thể dục với những bài tập nhẹ nhàng, phù hợp với sức khỏe. Với những bệnh nhân đặt nội khí quản thì lưu ý hãy đi tái khám ngay nếu gặp phải những triệu chứng dưới đây ho, sốt cao, khó thở, nhiều đờm nhớt có lẫn mủ vàng hoặc bị rơi đặt khí quản,… Để giúp bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, bạn cần tìm đến dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp, uy tín như Viecnha. Với đội ngũ chuyên viên được đào tạo bài bản, chuyên sâu, giàu kinh nghiệm, Viecnha sẽ giúp người thân của bạn có được chế độ chăm sóc kĩ lưỡng, tận tâm, sức khỏe được nâng cao. Đăng ký ngay hôm nay để nhận được mức giá ưu đãi. Việc nhà Dịch vụ giúp việc nhà chất lượng 5 sao Địa chỉ 28B Đường Số 3, phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh Điện thoại Bài viết Chăm sóc hô hấp cho trẻ sơ sinh thở máy được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc Respiratory Care for the Ventilated NeonateThông khí xâm lấn thường là cần thiết để điều trị trẻ sơ sinh bị suy hô hấp. Bệnh nhân sơ sinh có các đặc điểm sinh lý đặc biệt như kích cỡ đường thở nhỏ, ít đường thở bàng hệ, thành ngực đàn hồi, ổn định đường thở kém và dung tích cặn chức năng thấp. Bệnh lý ảnh hưởng đến phổi của trẻ sơ sinh cũng khác với nhiều bệnh được quan sát ở giai đoạn sau. Một số chế độ và chiến lược thông khí khác nhau có sẵn để tối ưu hóa thông khí cơ học và để ngăn ngừa tổn thương phổi do máy thở. Các khía cạnh quan trọng cần được xem xét ở trẻ sơ sinh thở máy bao gồm sử dụng ống nội khí quản có kích thước chính xác để giảm thiểu sức cản đường thở và công hô hấp, tư thế bệnh nhân, chăm sóc điều dưỡng, vật lý trị liệu hô hấp, an thần và giảm đau, và phòng ngừa nhiễm trùng, cụ thể là viêm phổi liên quan máy thở và nhiễm trùng bệnh viện, cũng như phòng ngừa và điều trị các biến chứng như rò rỉ không khí và xuất huyết phổi. Các khía cạnh của thông khí ở bệnh nhân theo ECMO oxy hóa qua màng ngoài cơ thể và trong chăm sóc giảm nhẹ đang được quan tâm ngày nay. Cơ học phổi và kiểm tra chức năng trực tuyến cũng như capnography đang trở nên phổ biến hơn. Siêu âm tim bây giờ là một thói quen trong hầu hết các đơn vị sơ sinh. Quang phổ gần hồng ngoại NIRS là một công cụ hấp dẫn có khả năng giúp ngăn ngừa xuất huyết não thất và nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất. Siêu âm phổi là một công cụ chẩn đoán mới nổi và có thể làm tăng hiệu quả theo dõi trẻ sơ sinh thở máy. Mục đích của tổng quan tài liệu khoa học này là nhằm giải quyết các khía cạnh liên quan liên quan đến chăm sóc hô hấp và theo dõi trẻ sơ sinh thở máy xâm lấn nhằm giúp các bác sĩ tối ưu hóa hiệu quả chăm Giới thiệuCó một xu hướng ngày càng tăng trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh NICU, neonatal intensive care units sử dụng các chế độ thông khí không xâm lấn; tuy nhiên, thông khí xâm lấn vẫn thường cần thiết để điều trị cho trẻ sinh non và đủ tháng bị suy hô hấp [1, 2].Ngày nay, trẻ sơ sinh non tháng được rút nội khí quản tương đối nhanh chóng và thông khí xâm lấn kéo dài được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng đối với sự phát triển của chứng loạn sản phế quản phổi BPD, bronchopulmonary dysplasia [3].Nhiều chế độ và chiến lược thông khí khác nhau có sẵn để tối ưu hóa thông khí cơ học và để ngăn ngừa tổn thương phổi do máy thở, và các chế độ thông khí nhắm mục tiêu theo thể tích đã báo cáo kết quả tốt hơn khi so sánh với các chế độ thông khí giới hạn áp lực [4].Các khía cạnh quan trọng cần được xem xét trong việc thở máy cho trẻ sơ sinh bao gồm sử dụng ống nội khí quản có kích thước chính xác, tư thế bệnh nhân, chăm sóc điều dưỡng, vật lý trị liệu hô hấp, an thần và giảm đau, và phòng ngừa nhiễm trùng, cụ thể là viêm phổi và nhiễm trùng bệnh viện. như điều trị các biến chứng như rò rỉ không khí và xuất huyết phổi [3, 5].Các khía cạnh của thông khí ở bệnh nhân đang ECMO extracorporeal membrane oxygenation và trong chăm sóc giảm nhẹ đang được quan tâm ngày nay. Theo dõi trẻ sơ sinh thở máy bằng cơ học phổi và kiểm tra chức năng trực tuyến cũng như capnography đang được sử dụng phổ biến hơn và siêu âm tim hiện nay là một thói quen trong hầu hết các đơn vị sơ sinh. Quang phổ gần hồng ngoại NIRS, near infrared spectroscopy đang trở thành một công cụ hấp dẫn trong việc giúp ngăn ngừa tổn thương thần kinh và siêu âm phổi là một công cụ chẩn đoán mới nổi và có thể có giá trị gia tăng trong việc theo dõi trẻ sơ sinh thở sóc điều dưỡng cá nhân hóa và điều trị hô hấp là rất quan trọng và ngày càng trở nên phổ biến trong các NICU. Người ta đã chứng minh rằng trung bình mỗi trẻ sơ sinh thở máy đòi hỏi phải có sự chăm sóc của một điều dưỡng trong 60% thời gian [6].Mục đích của chúng tôi là xem xét các tài liệu khoa học liên quan đến việc chăm sóc và theo dõi hô hấp cho trẻ sơ sinh thở máy xâm lấn nhằm giúp các bác sĩ tối ưu hóa hiệu quả chăm sóc đồng thời ngăn ngừa các tác dụng gây hại của điều Ống nội khí quảnỐng nội khí quản ETT, endotracheal tube, giao diện cơ bản giữa bệnh nhân và máy thở, là nền tảng cho thông khí thành công. Ống có kích thước phù hợp có thể được định nghĩa là ống có đường kính trong ID, inner diameter lớn nhất có thể sẽ thoải mái đi qua các dây thanh âm cung cấp một độ kín đủ để thông khí hiệu quả. Xác nhận sự tồn tại của một rò rỉ nhỏ ở áp lực hô hấp tối đa ≥ 20 cm H2O có thể giúp ngăn ngừa việc sử dụng một ống quá lớn [7]. Theo định luật của Poseuille, sức cản tỷ lệ nghịch với lũy thừa bậc bốn của bán kính ống ID, sức cản tăng khi ID ống giảm [8, 9]. Sức cản đặc biệt thường gặp ở các ống có ID ≤ 2,5 mm, với sự khác biệt nhỏ hơn mong đợi giữa các ống và 4 mm [8]. Chiều dài ống cũng làm tăng sức đề kháng, và nên cắt ống dài không cần thiết [9]. Các ống vai cũng đã được chứng minh là cung cấp ít sức đề kháng hơn ít hơn tới 50% và nên được xem xét, đặc biệt đối với các ống ID nhỏ hơn [9, 10]. Bảng 1 xuất phát từ các nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm, nên hướng dẫn lựa chọn kích thước ống ban đầu [11].Đường thở ở trẻ sơ sinh khác với trẻ lớn hơn > 8 tuổi và người lớn có phần hẹp nhất nằm ở sụn nhẫn [12]. Mặc dù những phát hiện gần đây đã đặt nó vào câu hỏi, tính năng giải phẫu này đã hướng dẫn nhiều năm thực hành với việc sử dụng ống nội khí quản không bóng chèn UTT, uncuffed endotracheal tubes cho trẻ nhỏ, trẻ nhũ nhi và trẻ sơ sinh [13]. Kể từ khi phát triển bóng chèn thể tích cao áp lực thấp HVLP, high- volume low-pressure, ống nội khí quản có bóng chèn CTT, cuffed endotracheal tubes đã được sử dụng ngày càng nhiều ở trẻ nhỏ, trẻ nhũ nhi và thậm chí cả trẻ sơ sinh [14]. Một báo cáo năm 2016 về các mô hình thực hành hiện tại của Hiệp hội Gây mê Nhi khoa Hoa Kỳ cho thấy 60% số người được hỏi đã sử dụng CTT trên trẻ sơ sinh đủ tháng > 50% thời gian [7]. Mặc dù một số báo cáo ngắn hạn đã coi CTT an toàn khi sử dụng ở trẻ sơ sinh không có tỷ lệ biến chứng lớn hơn UTT với điều kiện áp lực bóng chèn được theo dõi [15, 16], cũng đã có báo cáo mâu thuẫn với những phát hiện đó [17, 18]. Dữ liệu về sự an toàn và hiệu quả của việc sử dụng CTT để thông khí kéo dài và tác động đến kết quả lâu dài, trong bối cảnh NICU, còn thiếu [14].Một số nghiên cứu so sánh đặt nội khí quản qua đường mũi so sánh với qua đường miệng nasotracheal versus orotracheal. Xẹp phổi sau khi rút ống nội khí quản có thể xảy ra thường xuyên hơn khi đặt nội khí quản đường mũi, đặc biệt ở trẻ sơ sinh cực kỳ nhẹ cân ELBW. Không có đường nào được chứng minh là tốt hơn so với cái kia, với tỷ lệ biến chứng tương tự như nhau [19].Để xác nhận đặt ống nội khí quản đúng trên lâm sàng, cần kết hợp các dấu hiệu lâm sàng phế âm nghe ở vùng nách, sự nở rộng của lồng ngực, tăng nhịp tim và ngưng tụ hơi nước thì thở ra có thể nhìn thấy trên ống và theo dõi CO2 thở ra. Mặc dù hiệu quả trong hầu hết các tình huống, chúng phải được giải thích một cách thận trọng trong bối cảnh ngừng tim [20].Sau khi đặt nội khí quản thành công, đặt ống ở độ sâu chính xác là rất quan trọng. Đặt quá sâu có thể dẫn đến đặt nội khí quản vào phế quản gốc bên phải, gây tràn khí màng phổi và/hoặc xẹp phổi. Đặt quá nông khiến bệnh nhân có nguy cơ cao tuột ống nội khí trí an toàn lý tưởng cho đầu ETT là vị trí giữa khí quản, thường ở mức T1-T2 [21-23]. Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh ELBW, mức độ của carina có thể cao ở T3, thay vì T4 thông thường, sẽ làm cho vị trí giữa khí quản cao hơn một chút [23].Một số quy tắc và công thức đã được phát triển để giúp dự đoán chiều dài ống lý tưởng [24]. Quy tắc phổ biến 7-8-9, được phát triển bởi Tochen [25], ở dạng đơn giản hóa có thể được dịch là 6+ trọng lượng trẻ đối với đặt nội khí quản qua đường miệng, giả định mối quan hệ tuyến tính giữa trọng lượng cơ thể và chiều dài ống thích hợp. Peterson và cộng sự [26] và Amallyo và cộng sự [27] đã đặt nghi vấn đối với trẻ sơ sinh ELBW, vì việc sử dụng công thức của Tochen sẽ dẫn đến đặt sâu quá mức của ETT, trong phân nhóm bệnh nhân đó. Kempley và cộng sự [28] đã chứng minh mối quan hệ tuyến tính giữa chiều dài ống ETT với tuổi thai nhưng không phải với trọng lượng cơ thể và đề xuất một mô hình sử dụng tuổi thai được trình bày dưới dạng bảng để dự đoán chiều dài ETT tốt hơn Bảng 1. Tuy nhiên, Flinn et al. [29] không thể tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa bảng tuổi thai của Kemple và công thức trọng lượng cơ thể của Tochen để ước tính chiều dài ETT, mặc dù nghiên cứu của ông bị giới hạn bởi việc đưa vào một số lượng nhỏ trẻ sơ sinh cực kỳ sớm và/hoặc ELBW. Điều này có thể có nghĩa là dữ liệu tuổi thai chủ yếu liên quan đến trẻ sơ sinh 1 Độ sâu đặt ống nội khí quản cho đặt nội khí quản qua miệng và qua mũi ở trẻ sơ sinh [28].Tuổi thai tuầnCân nặngkgChiều dài NKQ đến môi cmChiều dài NKQ đến lỗ mũi cm quang ngực vẫn là tiêu chuẩn vàng để xác nhận đặt ống đúng vị trí [30]. Mặc dù các phương pháp kỹ thuật khác đã cho thấy sự hứa hẹn ví dụ siêu âm, chúng đòi hỏi phải có kỹ năng chuyên môn đặc biệt hoặc không rộng rãi và/hoặc có sẵn [31].Ống phải được cố định để đảm bảo di động tối thiểu có thể với đầu của bệnh nhân được giữ ở tư thế trung lập [21]. Một số phương pháp cố định ống đã được báo cáo, nhưng hiện tại không đủ bằng chứng để chỉ ra một phương pháp cụ thể so với phương pháp khác [32].3. Tư thế bệnh nhânỞ trẻ sơ sinh thở máy, người ta đã quan sát thấy rằng các tư thế khác với tư thế nằm ngửa tiêu chuẩn, chẳng hạn như tư thế nằm sấp, có thể cải thiện công hô hấp. Lợi ích của các tư thế này chưa được xác định rõ ràng đối với trẻ sơ sinh bị bệnh nghiêm trọng khi nhận MV. Một phân tích tổng hợp của Rivas-Fernandez và cộng sự, bao gồm 19 thử nghiệm với 516 người tham gia đã kết luận rằng bằng chứng về chất lượng thấp đến trung bình ủng hộ tư thế nằm sấp cho thấy cải thiện oxy hóa ở trẻ sơ sinh được thở máy. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào được tìm thấy cho thấy các tư thế cơ thể cụ thể trong quá trình thở máy ở trẻ sơ sinh có hiệu quả trong việc tạo ra sự cải thiện bền vững và liên quan đến lâm sàng [33]. Có thể có thêm lợi ích trong việc nâng đầu giường lên một chút để cho phép mở rộng phổi. Tư thế này nên được thay đổi định kỳ để tránh ứ đọng dịch tiết ở đáy phổi [33].Tư thế nằm ngửa của trẻ sơ sinh khi thở máyMặc dù không có câu trả lời dứt khoát, trẻ sinh non, vì nguy cơ xuất huyết quanh não thất và ảnh hưởng của tư thế đầu trên dẫn lưu tĩnh mạch cảnh, nên nằm sao cho đầu ở tư thế giữa, ít nhất là khi nguy cơ xuất huyết là lớn nhất, đó là trong ba ngày đầu tiên của cuộc đời [34].4. Vật lý trị liệu hô hấpBệnh nhân sơ sinh có các đặc điểm sinh lý như duy trì và giải phóng đường thở khó khăn, kích cỡ đường thở nhỏ hơn, ít đường dẫn khí bàng hệ, thành ngực đàn hồi tốt, ổn định đường thở kém và dung tích cặn chức năng thấp hơn [35, 36]. Một lượng nhỏ chất nhầy có thể tạo ra sự gia tăng lớn sức cản đường thở, làm giảm lưu lượng không khí và, không có lưu lượng thở ra làm cho dịch tiết không bị thải ra ngoài. Một số thao tác trị liệu bằng đường hô hấp có thể cho phép đủ lưu lượng thở mà không dẫn đến đóng đường thở [35]. Sự hiện diện của ống nội khí quản có liên quan đến sự thanh thải đường thở bị tổn thương, cản trở phản xạ ho, làm suy yếu chức năng thanh thải niêm mạc và có thể làm tăng sản xuất chất nhầy [35, 36]. Các thủ thuật vật lý trị liệu thực hiện xung quanh thời điểm rút nội khí quản cho thấy sự cải thiện các triệu chứng phổi với sự giảm tỷ lệ mắc xẹp phổi sau rút ống [35, 36]. Các kỹ thuật vật lý trị liệu hô hấp dẫn đến các tác động lên cơ học của phổi, cải thiện thông khí và tạo điều kiện cho việc loại bỏ dịch tiết để tránh tắc nghẽn phế quản, cho phép duy trì tốt đường thở và tạo điều kiện cho cai máy thở [37, 38]. Tuy nhiên, một số tác giả báo cáo rằng không có đủ bằng chứng để xác định liệu vật lý trị liệu hô hấp tích cực có lợi cho trẻ sơ sinh khi thở máy hay không. Theo truyền thống, vật lý trị liệu hô hấp ở trẻ sơ sinh bao gồm nhiều kỹ thuật tư thế, dẫn lưu tư thế, các kỹ thuật chủ động như rung và vỗ, và hút [39]. Gần đây, các kỹ thuật phục hồi chức năng hô hấp khác như tăng bơm phồng phổi hyperinflation đã được áp dụng [35]. Mỗi loại đều có chỉ định và chống chỉ định và chúng thường được sử dụng kết hợp nên rất khó xác định hiệu quả chính xác của từng kỹ thuật cụ thể [39]. Các nghiên cứu sâu hơn vẫn cần thiết để giải quyết vấn đề này. Thao tác trên ngực ở trẻ sơ sinh không phải là không có nguy cơ và chỉ nên được thực hiện bởi những nhân viên được đào tạo có trình độ chuyên môn cao [35]. Các phiên vật lý trị liệu nên ngắn và nên đi trước khi cho trẻ ăn [38].5. Chăm sóc điều dưỡngCác điều dưỡng chăm sóc trẻ sơ sinh được thở máy phải đối mặt với nhiều thử thách. Quan sát màn hình theo dõi, thiết bị thông khí, hệ thống cung cấp oxy và tình trạng oxy hóa của bệnh nhân cùng với chính bệnh nhân là những thành phần thiết yếu của chăm sóc điều dưỡng. Thiết bị có độ nhạy cao rất hữu ích cho việc theo dõi bệnh nhân. Giới hạn báo động trên và dưới đối với nhịp tim, hô hấp, huyết áp và độ bão hòa oxy được đặt trên cơ sở bằng chứng hiện tại và tiêu chuẩn chăm sóc cụ thể của NICU [40].Các khía cạnh chính của chăm sóc bao gồm điều chỉnh thân nhiệt, tư thế tối ưu, giải phóng đường thở, tình trạng huyết động ổn định và dinh dưỡng đầy đủ để duy trì sự tăng trưởng và phát triển [41].Giao tiếp cởi mở, trung thực với gia đình là cần thiết để giảm bớt sự lo lắng của họ [42].Điều dưỡng phải cung cấp một môi trường an toàn cho trẻ sơ sinh trong đơn vị và điều chỉnh các chính sách kiểm soát nhiễm trùng [40].Rửa tay, cách ly, giám sát và sàng lọc khách là những khía cạnh liên quan đến các điều dưỡng trong các NICU [40].Chăm sóc trẻ sơ sinh thở máyChăm sóc Kangaroo mang lại lợi ích cho trẻ sơ sinh thở máy ổn định, miễn là quy trình được thực hiện an toàn theo các quy trình điều dưỡng chuyển từ và trở lại lồng ấp [43, 44].6. Làm ấm và làm ẩm không khíĐặt nội khí quản giúp loại bỏ các cơ chế tự nhiên của quá trình lọc, làm ẩm và làm ấm không khí hít vào [45].Không khí được hít vào mũi được làm ấm và làm ẩm gần 90% theo thời gian nó đi qua hầu họng [45] Việc sử dụng oxy khô làm giảm hàm lượng nước của không khí được hít vào, và sử dụng đường thở nhân tạo bỏ qua vùng mũi hầu và miệng hầu nơi làm ẩm của khí chủ yếu diễn ra [46].Nếu độ ẩm của khí được hít vào không được đầy đủ, có thể xảy ra rối loạn chức năng thanh thải, viêm và hoại tử biểu mô phổi, ứ dịch tiết khô, xẹp phổi, xâm nhập vi khuẩn vào niêm mạc phổi và viêm tạo độ ẩm và làm ấm khí thở được cung cấp cho trẻ sơ sinh trong quá trình thở máy thông qua nhánh hít vào của bộ dây máy thở [47]. Máy tạo độ ẩm được phân loại là chủ động nếu chúng có nguồn nhiệt, nước và lưu lượng. Các máy làm ẩm bốc hơi được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trong các NICU. Khí đi vào trẻ sơ sinh đi qua bề mặt nước nóng [48]. Các hệ thống tinh vi bao gồm bình chứa, dây điện trở, thiết bị sưởi ấm và các thành phần khác được sử dụng phổ biến trong phòng chăm sóc đặc biệt [49].7. Khí dung và phun sươngLiệu pháp khí dung đã được chứng minh là một hình thức vận chuyển thuốc hiệu quả. Mặc dù sử dụng thường xuyên trong các NICU, việc phát triển các thiết bị phù hợp cũng như các thuốc vẫn đưa ra một thách thức [50, 51].Thiết bị cho quá trình aerosol hóa ở trẻ sơ sinh bao gồm ống hít định liều MDI, metered dose inhalers, buồng giữ holding chambers và máy phun khí dung nebulizers siêu âm – ultrasonic, phản lực – jet và màng rung – vibrating mesh, và máy tạo khí dung mao quản capillary aerosol generator [50, 52]. Ví dụ về các loại thuốc được sử dụng ở trẻ sơ sinh bị bệnh nặng là surfactant, corticosteroid, thuốc giãn phế quản, thuốc lợi tiểu, và thuốc chống vi rút và thuốc vận mạch [50, 51].Các đặc điểm đặc biệt của dân số sơ sinh thể tích khí lưu thông và dung tích cặn chức năng thấp, nhịp thở cao, thời gian cư trú của hạt rút ngắn và đường kính đường thở nhỏ hơn làm giảm lượng khí dung hít vào [50, 51]. Hiệu quả của các liệu pháp đường hô hấp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác, bao gồm chính thiết bị, loại và tư thế của máy phun khí dung, đặc tính khí dung kích thước hạt, hình dạng và mật độ, điều kiện khí thông khí lưu lượng và độ ẩm, giao diện bệnh nhân và chế độ hỗ trợ thở [50-53].Các khuyến nghị hiện tại cho trẻ sơ sinh thở máy thông thường SIMV, AC, VG và VC và cho những trẻ đang điều trị bằng CPAP áp lực đường thở dương liên tục nhằm mục đích làm sạch đường thở nhân tạo trước khi phun sương, loại bỏ cảm biến lưu lượng máy thở ra khỏi đầu nối wye, sử dụng máy phun sương dạng lưới rung Aeroneb, Pari e-Flow hoặc MDI với buồng giữ, đặt thiết bị vào nhánh hít vào trong bộ dây máy thở cách đầu nối 20 cm và tối ưu hóa hỗ trợ hô hấp tăng thời gian hít vào càng nhiều càng tốt, giảm nhịp hô hấp càng nhiều càng tốt, bỏ qua máy tạo độ ẩm và duy trì sự gia nhiệt luồng không khí trong quá trình phun sương [53].8. Phòng chống nhiễm trùngNhiễm trùng, và phòng ngừa của nó, là một mối quan tâm quan trọng ở bệnh nhân thở máy sơ sinh, đặc biệt là những trẻ có cân nặng khi sinh rất thấp. Viêm phổi liên quan đến máy thở VAP, được định nghĩa là nhiễm trùng phổi được chẩn đoán ở bệnh nhân thở máy sau 48 giờ [54], là dạng nhiễm trùng bệnh viện phổ biến thứ hai và là biến chứng liên quan đến thiết bị phổ biến xảy ra với tỷ lệ thay đổi là 2,3 đến 10,9 đợt trên 1000 ngày máy thở ở các nước phát triển [55-57].Không có tiêu chuẩn được chấp nhận phổ biến để chẩn đoán VAP trong thời kỳ sơ sinh [58]. Hướng dẫn chẩn đoán VAP cho trẻ sơ sinh dưới 12 tháng tuổi đã được sử dụng ở trẻ sơ sinh, theo đó, để được chẩn đoán mắc VAP, bệnh nhân thở máy phải có dấu hiệu lâm sàng ít nhất một trong những điều sau đây thở nhanh, ngưng thở và/hoặc co giật, tăng nhu cầu oxy bổ sung, tăng các cài đặt máy thở để đạt được các giá trị hô hấp mục tiêu, lượng dịch tiết, tần suất các lần mất độ bão hòa, X quang thâm nhiễm kéo dài hoặc đông đặc phổi trong hai lần chụp X quang liên tiếp sau khi bắt đầu thở máy và các tiêu chí vi sinh vật phân lập vi sinh vật thu được từ rửa phế quản hoặc phân lập vi sinh vật trong nuôi cấy máu mà không có bất kỳ ổ nhiễm trùng khác, hoặc kiểm tra mô bệnh học [59, 60]. Nghiên cứu vi sinh học của dịch hút khí quản không đáng tin cậy để chẩn đoán VAP vì việc vi khuẩn cư trú đường thở không thể được loại trừ bằng kỹ thuật này. Tiêu chuẩn để lấy mẫu vi sinh của đường thở là rửa phế quản phế nang bronchoalveolar lavage bằng nội soi và lấy mẫu bệnh phẩm bằng bàn chải được bảo vệ protected specimen brush, có đặc tính xâm lấn, không sử dụng phổ biến ở trẻ sơ sinh được đặt ống nội khí quản có đường kính nhỏ, nên thường được sử dụng thay thế bằng rửa phế quản phế nang mù được bảo vệ blind-protected bronchoalveolar lavage[61].Một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến sự xuất hiện của VAP. Trong số này, thời gian thở máy và trẻ sơ sinh ELBW dường như có ý nghĩa nhất trong phân tích đa biến [60, 61], mặc dù những thời gian khác như thời gian nằm viện, đặt nôi khí quản lại, cho ăn đường ruột, thở máy, truyền máu, nhẹ cân, sinh non, loạn sản phế quản phổi và dinh dưỡng đường tĩnh mạch đã được xác định trong một phân tích tổng hợp gần đây của các nghiên cứu quan sát [62]. Ngược lại, việc giảm tần suất thay dây máy thở thay đổi từ bảy đến 14 ngày dường như không ảnh hưởng đến tỷ lệ VAP [62].Các tác nhân phổ biến nhất liên quan đến VAP là vi khuẩn gram âm đặc biệt là Pseudomonas aeruginosa, Enterobacter và các loài Klebsiella mặc dù các vi khuẩn gram dương, cụ thể là coagulase negative staphylococci và Staphylo- coccus aureus, cũng đóng vai trò [61, 62, 64, 65]. Nuôi cấy vi khuẩn thường được thực hiện bằng lấy mẫu dịch hút khí quản được sử dụng. Không có sự đồng thuận cho điều trị ban đầu của VAP. Điều trị theo kinh nghiệm ban đầu nên bao gồm kháng sinh phổ rộng có độ bao phủ đối với vi khuẩn Gram dương và Gram âm, dựa trên các tác nhân gây bệnh có khả năng và mô hình kháng kháng sinh tại chỗ [65].VAP có liên quan đến việc tăng thời gian nằm viện và tỷ lệ tử vong [61]. Trong sổ đăng ký Neo- Kiss, Leistner và đồng nghiệp nhận thấy tỷ lệ mắc VAP có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh từ 1000 g đến 1500 g [56], tùy thuộc theo kết quả từ các nhóm nghiên cứu khác nhau [64].Triển khai gói phòng ngừa VAP sơ sinh đã được chứng minh là làm giảm tỷ lệ VAP trong các NICU [64]. Các gói như vậy, áp dụng một số thực tiễn dựa trên bằng chứng, đã chứng minh dẫn đến cải thiện thực tiễn lớn hơn so với tổng lợi ích của mỗi thực hành trên chính nó [66]. Chúng nên bao gồm các thực hành liên quan đến tư thế đầu cao ở trẻ sơ sinh thở máy, sử dụng ống thông hút đàm kín, tần số thay đổi hệ thống hút, thay đổi thường quy của bộ dây máy thở, đánh giá sự sẵn sàng cho rút ống và đánh giá thận trọng về nhu cầu đặt lại, sử dụng các loại thuốc can thiệp vào axit dạ dày, sử dụng khử trùng ruột bằng kháng sinh và vệ sinh răng miệng, và sử dụng các dụng cụ hút miệng và khí quản riêng biệt [66]. Cũng như các bệnh nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe khác, cải thiện giáo dục người chăm sóc và vệ sinh tay vẫn là một biện pháp rất quan trọng để kiểm soát tỷ lệ mắc bệnh An thần và giảm đauHiện nay người ta biết rằng trẻ sinh non nhạy cảm với cơn đau hơn trẻ lớn và việc đặt nội khí quản và thở máy xâm lấn có những thay đổi sinh lý xác định căng thẳng và đau đớn, có thể giảm khi dùng thuốc an thần và thuốc giảm đau [67]. Ngày nay, việc phòng ngừa và điều trị đau và kích xúc là một thành phần thiết yếu của thực hành lâm sàng [67, 68]. Một nghiên cứu gần đây, bao gồm 18 NICU châu Âu, cho thấy chỉ có 46% trẻ sơ sinh thở máy xâm lấn được đánh giá đau liên tục [69]. Một nghiên cứu khác ghi nhận việc sử dụng thuốc giảm đau/an thần và đánh giá đau rất phổ biến nhưng vẫn rất khác nhau tại các bệnh viện ở Ý, bất chấp sự phổ biến của các hướng dẫn quốc gia, cho thấy cần phải cải thiện việc đánh giá đau thường xuyên và kiểm soát/dự phòng cơn đau ở tất cả trẻ sơ sinh [70].Sau khi đánh giá đau chính xác, nên điều trị đau và căng thẳng. Các biện pháp can thiệp phi dược lý như mút không có dinh dưỡng và sucrose phải được thử. Việc sử dụng chúng ở trẻ sơ sinh cực kỳ non tháng, không ổn định, đang thở máy cần được giải quyết [71].Không nên dùng thuốc an thần hoặc giảm đau định kỳ ở trẻ sơ sinh non tháng do những lo ngại về an toàn liên quan đến dược lý. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh non tháng thở máy vẫn có thể cho sử dụng morphin. Hiếm khi sử dụng fentanyl hoặc remifentanil [71].Chúng tôi tập trung vào thuốc an thần và giảm đau thường được sử dụng trong các thuốc điều trị trong NICU midazolam, morphin và các loại thuốc phiện khác, cụ thể là fentanyl và remifentanil Bảng 2 [67, 72-77].Trong phòng sinh, midazolam mũi hiệu quả hơn ketamine để an thần đầy đủ cho trẻ sơ sinh cần đặt nội khí quản. Các huyết động và tác dụng hô hấp của cả hai loại thuốc này tương đương nhau [78]. Trẻ sinh non được điều trị MIST liệu pháp chất hoạt động bề mặt xâm lấn tối thiểu sẽ thoải mái hơn khi dùng thuốc an thần, nhưng cần thông khí thường xuyên hơn [79].Bảng 2. Thuốc an thần và giảm đau thường được sử điểmMidazolamĐược sử dụng rộng rãi trong các NICU, một vài thập kỷ trước. Liều truyền thông thường là 10-60 μg/kg/giờ. Ở trẻ rất thiếu tháng, tỷ lệ tụt huyết áp và xuất huyết não thất cao đã được báo cáo và chống chỉ định sử dụng [67]. Tuy nhiên, ngày nay, dữ liệu không đủ để thúc đẩy việc sử dụng truyền midazolam tiêm tĩnh mạch như một thuốc an thần cho trẻ sơ sinh đang được chăm sóc đặc biệt [72]. Gần đây tiếp xúc với midazolam có liên quan đến sự thay đổi cấu trúc trong sự phát triển vùng đồi thị và kết quả kém hơn phù hợp với rối loạn chức năng vùng đồi thị [73]. Dữ liệu cho thấy cần nghiên cứu thêm về hiệu quả và độ an toàn của midazolam ở trẻ sơ sinh trước khi sử dụng thường xuyên trong các được sử dụng trong truyền liều thấp 10 μg/kg/giờ để kiểm soát căng thẳng ở trẻ thở máy. Opioids kéo dài thở máy do ức chế ổ hô hấp [67]. Tuy nhiên, do thiếu các loại thuốc thay thế có sẵn, chúng được sử dụng trong thực hành lâm sàng ở trẻ sơ sinh với sự thay đổi rõ rệt giữa các NICU [74]. Mặc dù người ta biết nhiều về morphin ở trẻ sơ sinh, nhưng không đủ bằng chứng để khuyến nghị sử dụng opioid thường quy ở trẻ sơ sinh thở máy. Opioids nên được sử dụng có chọn lọc, bằng đánh giá lâm sàng và đánh giá đau. Nếu cần dùng thuốc an thần, morphin an toàn hơn midazolam [75, 76].FentanylTruyền tĩnh mạch thường là 1,5 μg/kg/giờ. Nó có thể gây ra cứng thành ngực và co thắt thanh quản ở cả trẻ sơ sinh đủ tháng và sinh non. Có sự tích lũy đáng kể do thời gian bán hủy kéo dài ở trẻ sơ sinh non tháng, ngay cả khi dùng liều thấp. Vì vậy, nên tránh truyền fentanyl liên tục ở trẻ non tháng [67].RemifentanilLiều 1-4 μg/kg cho thấy có hiệu quả tương đương với chế độ morphin-midazolam khi đặt nội khí quản. Việc sử dụng nhanh remifentanil cung cấp không đủ thuốc an thần và có liên quan, như fentanyl, làm cứng thành ngực ở trẻ sơ sinh non tháng [77].Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát là cần thiết để kiểm tra xem lợi ích của thuốc an thần có cao hơn các nguy cơ biến chứng hay giao thức giảm đau và an thần ở trẻ sơ sinh nên được thực hiện trong mỗi NICU. Nó có thể làm tăng tiếp xúc thuốc phiện, nhưng dường như không ảnh hưởng đến kết quả phát triển thần kinh của trẻ cực kỳ non tháng [80]. Tuy nhiên, như với bất kỳ loại thuốc nào, khả năng phản ứng bất lợi ngắn và dài hạn phải được xem xét. Điều trị phi dược lý nên được sử dụng càng nhiều càng tốt [81, 82].Các chất ức chế thần kinh cơ không được khuyến cáo trong NICU. Một sự điều trị tạm thời có thể được sử dụng trong các thủ thuật chẩn đoán hoặc điều trị ngắn để tránh hậu quả huyết động của thuốc an thần sâu [83].10. Cai máy và rút ốngViệc cai máy và rút ống làm thay đổi công hô hấp từ máy thở đến bệnh nhân và kiểm soát của trung khu hô hấp phải đủ để duy trì thông khí phế nang với thể tích khí lưu thông 4 ml/kg [84]. Thuốc giảm đau nên được giảm và dừng lại nếu có thể trước khi rút ống [85]. Khi sự thông khí của bệnh nhân được cải thiện, nên giảm FiO2 xuống dưới 0,40 và các thông số thông khí có thể được giảm cùng với khí máu bình thường, và trước tiên nên giảm thông số có hại nhất [86]. Methylxanthines rất hữu ích ở trẻ sơ sinh non tháng, và những quần thể này nên được bắt đầu bằng CPAP mũi hoặc HFNC high flow nasal cannula sau rút ống [86]. Steroid toàn thân và thuốc lợi tiểu có thể hữu ích để rút ống cho trẻ sinh non vẫn thở máy sau tuần đầu tiên của cuộc đời [86]. Thiếu máu có thể cần phải được điều chỉnh và huyết sắc tố trên 15 g/dl được chỉ định trong các trường hợp được chọn lọc [86]. Tư thế nằm sấp có thể hữu ích trong việc ổn định thành ngực và cải thiện cơ hoành. X quang phổi không cần thiết thường xuyên, trừ khi có bằng chứng lâm sàng về suy hô hấp [86].11. Mở khí quảnMở khí quản sơ sinh là một nhu cầu phổ biến của trẻ sơ sinh cần thông khí kéo dài. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phẫu thuật mở khí quản sớm giúp giảm tỷ lệ mắc chứng hẹp dưới thanh môn và hẹp khí quản ở trẻ được đặt nội khí quản trong thời gian dài và giúp cải thiện sự thoải mái, giảm nhu cầu an thần, corticosteroid toàn thân, cải thiện dinh dưỡng và tăng trưởng, khả năng cho ăn bằng miệng thành lập, phát âm với một van nói. Cải thiện khả năng sống sót của trẻ sơ sinh cân nặng cực kỳ thấp và rất thấp và trẻ sơ sinh bệnh lý phức tạp có thể dẫn đến thở máy kéo dài và đôi khi phải mở khí quản [87].Các chỉ định cho phẫu thuật mở khí quản sơ sinh đã thay đổi theo thời gian. Với nhu cầu thông khí lâu dài, nó đã trở nên phổ biến hơn [88]. Overman et al. đã thực hiện đánh giá hồi cứu 165 trẻ sơ sinh cần phẫu thuật mở khí quản và hỗ trợ máy thở với tuổi thai trung bình là 27 tuần từ 22-43 tuần và cân nặng khi sinh là 820 g từ 360 -860g. Tỷ lệ mở khí quản tổng thể là 6,9% 87/1345 đối với trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh ≤ 1000 g so với 0,9% 64/6818 đối với trẻ sơ sinh > 1000 g P 1000 g P 1000 g phạm vi 15-1270; P = 0,011 [88].Các chỉ định phổ biến cho phẫu thuật mở khí quản ở trẻ sơ sinh và trẻ sơ sinh bao gồm tắc nghẽn đường thở bẩm sinh hoặc mắc phải và các tình trạng mãn tính bệnh tim, bệnh thần kinh cơ và loạn sản phế quản phổi. Các quyết định về phẫu thuật mở khí quản ở trẻ sơ sinh liên quan đến việc xem xét cẩn thận một số yếu tố. Tỷ lệ tử vong, các kết quả ngắn hạn và dài hạn, triển vọng cho liệu pháp thông khí tại nhà và các biện pháp thay thế cho phẫu thuật mở khí quản nên được xem xét [89].Kỹ thuật mở khí quản sơ sinh nên được thực hiện trong phòng mổ [90]. Mở khí quản có khả năng gây khó khăn đáng kể. Kỹ thuật tỉ mỉ, kinh nghiệm phẫu thuật viên và chăm sóc chuyên khoa có thể đóng một vai trò trong việc giảm tỷ lệ biến chứng. Tuy nhiên, các biến chứng thường là nhỏ ở trẻ sơ sinh và không cần can thiệp phẫu thuật bổ sung [91].12. Thông khí trong chăm sóc giảm nhẹMặc dù có những tiến bộ trong y học sơ sinh và chăm sóc tích cực, có một số trẻ sơ sinh đang phải dùng phương pháp điều trị có hại, hoặc không còn có lợi và có thể ngừng sử dụng sau khi thảo luận với gia đình [92]. Mục đích của chăm sóc giảm nhẹ là giữ cho em bé thoải mái và hỗ trợ cha mẹ chăm sóc em bé theo mong muốn và niềm tin của họ [93, 94].Quá trình ngưng bao gồm giải thích cho cha mẹ những gì sẽ xảy ra; thành viên nào của nhân viên sẽ chịu trách nhiệm rút ống nội khí quản và tắt máy thở; hút qua ống thông mũi dạ dày xem xét không cho trẻ ăn ngay trước khi rút ống nội khí quản; các báo động của máy thở và màn hình nên được tắt trước khi ngắt kết nối; ống nội khí quản phải được hút trước khi lấy ra; cha mẹ nên được lựa chọn có mặt và bế trẻ. Việc rút các hình thức ít xâm lấn hoặc hỗ trợ hô hấp như áp lực đường thở dương liên tục qua mũi và oxy ống thông mũi có thể phù hợp nếu em bé sắp chết và tiếp tục cung cấp hỗ trợ hô hấp chỉ có tác dụng trì hoãn tử vong [92-95]. Các chất ức chế thần kinh cơ không bao giờ nên dùng khi rút máy thở. Nếu trẻ sơ sinh bị liệt, những lý tưởng này đã được cai máy hàng giờ đến vài ngày trước đó [93]. Thuốc giảm đau và thuốc an thần nên được chuẩn độ để giảm đau. Trẻ em thường bị đau, kích động và khó thở sau khi rút ống, cần tăng liều thuốc [92]. Trong một số trường hợp, không cần thiết phải tắt máy thở hoặc rút ống, các thông số của thông khí có thể được giảm cho đến khi đạt được giá trị tối thiểu, với việc giảm oxy. Thông khí không xâm lấn có thể được sử dụng để làm giảm các dấu hiệu suy hô hấp [93].13. Chăm sóc trong ECMOECMO oxy hóa màng ngoài cơ thể là một điều trị cho phép cung cấp hỗ trợ tim mạch-hô hấp. ECMO tĩnh mạch-tĩnh mạch VV làm tăng hàm lượng oxy trong máu tĩnh mạch. ECMO tĩnh mạch-động mạch VA, ngoài việc tăng hàm lượng oxy trong máu, có thể cung cấp hỗ trợ huyết động bằng cách tăng lưu lượng máu toàn thân. Kỹ thuật này, với sự hiện diện của bệnh lý phổi, sẽ cho phép phục hồi cấu trúc và chức năng phổi để đảm bảo sự sống sót của trẻ sơ sinh [96, 97].Sau khi bắt đầu VA-ECMO, các thông số thông khí có thể được nhanh chóng giảm xuống. Bệnh nhân nên duy trì trong suốt quá trình điều trị để cho phép phục hồi chức năng phổi với các cài đặt của phổi nghỉ FiO2 25-30%, áp lực hít vào tối đa PIP 20-25 cm H2O; thời gian hít vào Ti 0,5 – giây, tần số F 20-25 nhịp thở mỗi phút hoặc thậm chí ở áp lực đường thở dương liên tục CPAP với PEEP cao 10-12 cm H2O để duy trì dung tích cặn chức năng FRC mà không gây tổn thương phổi volutrauma, barotrauma hoặc atelectrauma. Trong VA-ECMO, điều cần thiết là tích hợp sự hiện diện của hai phổi và hai trái tim hoạt động song song. Cải thiện chức năng tim tự nhiên có thể làm giảm độ bão hòa oxy động mạch, nhưng với tăng cung cấp oxy khi bắt đầu VV-ECMO, việc cai máy từ hỗ trợ thông khí và huyết động nên được thực hiện từ từ và thận trọng, vì việc cung cấp oxy phụ thuộc vào chức năng cơ tim tự nhiên và mặt khác, phổi tự nhiên vẫn cung cấp trao đổi khí. Việc sử dụng PEEP cao có thể làm giảm lưu lượng máu phổi và cung lượng tim. Các thông số nghỉ cần đạt được sẽ giống như đối với VA-ECMO, nhưng chúng ta nên sử dụng theo dõi CO2 khí thở ra để tối ưu hóa PEEP [98-100].Trong quá trình điều trị ECMO, các chiến lược thông khí nhẹ nhàng và bảo vệ có thể và nên được sử dụng, mà không cần quan tâm đến thông khí/oxy hóa đã được đảm bảo bằng kỹ thuật ECMO [100].Khi bị tuột cannula cấp tính do kỹ thuật, các thông số thở máy cứu nguy phải được chỉ định rõ ràng và phải được cài đặt ngay trên máy thở theo tình trạng lâm sàng của bệnh nhân [99].14. Biến chứng Rò rỉ khí và Xuất huyết phổiHội chứng rò rỉ khí đề cập đến sự thoát khí từ cây khí quản vào nhu mô phổi và khoang màng phổi nơi bình thường nó không có mặt, và bao gồm tràn khí màng phổi, khí thũng mô kẻ phổi, tràn khí trung thất, tràn khí màng ngoài tim, tràn khí khoang phúc mạc, tràn khí dưới da, thuyên tắc khí hệ rỉ khí là một biến chứng phổ biến, xảy ra ở 40% trẻ sơ sinh thở máy [101]. Các yếu tố nguy cơ bao gồm sinh non, cân nặng khi sinh rất thấp, điểm Apgar thấp, áp lực hít vào đỉnh cao, thể tích khí lưu thông cao, thời gian hít vào cao, hội chứng suy hô hấp, hội chứng hít phân su, hít nước ối, viêm phổi và giảm sản phổi [102]Rò rỉ khí thường xuyên nhất ở trẻ sơ sinh thở máy là tràn khí màng phổi. Các chiến lược thông khí khác nhau ảnh hưởng khác nhau đến nguy cơ tràn khí màng phổi, với bằng chứng cho thấy thông khí tần số cao [105], thông khí nhắm mục tiêu theo thể tích [106] và tăng PEEP [104] có liên quan đến giảm nguy cơ và áp lực dương liên tục CPAP có liên quan đến việc tăng nguy cơ tràn khí màng phổi [107, 108].Biểu hiện lâm sàng từ không triệu chứng đến suy hô hấp tiến triển nặng [102 ] và, trong trường hợp tràn khí màng phổi có áp lực gây ảnh hưởng đến huyết động [109 ]. Khám thực thể có thể cho thấy lệch khí quản, nâng ngực không đối xứng, phế âm giảm ở phía bị ảnh hưởng và tiếng tim mờ hoặc thay đổi [ 109 ]. Chẩn đoán thường được thực hiện bằng X quang [109]. Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh, các dấu hiệu kinh điển có thể khó nhận ra hơn. Một nghiên cứu đánh giá vai trò của các dấu hiệu X quang đặc biệt trong chẩn đoán tràn khí màng phổi ở trẻ sơ sinh cho thấy 46% trẻ sơ sinh bị tràn khí màng phổi có các dấu hiệu X quang từ 0,5 đến 27 giờ trước khi chúng được chẩn đoán lâm sàng, cụ thể là dấu hiệu “deep sulcus sign” dấu hiệu vòm hoành sâu, dấu hiệu sọc trung gian, đáy phổi tăng sáng, tăng độ sắc nét của tim trung thất, 1⁄2 ngực tăng sáng và dấu hiệu cơ hoành kép [110 ]. Do đó, những dấu hiệu này nên được tìm kiếm ở trẻ sơ sinh thở máy để thực hiện chẩn đoán sớm tràn khí màng tràn khí màng phổi có áp lực đòi hỏi phải chẩn đoán và can thiệp ngay lập tức ngay cả trước khi có hình ảnh, và rọi đèn ánh sáng lạnh transillumination có vai trò trong những trường hợp này [101, 109 ].Các lựa chọn điều trị bao gồm điều trị bảo tồn, rửa nitơ bằng oxy, chọc hút bằng kim, dẫn lưu ngực và đặt ống thông đuôi lợn. Một nghiên cứu chỉ bao gồm các bệnh nhân người lớn báo cáo tỷ lệ tái hấp thu tự phát tràn khí màng phổi là 1,2% thể tích của hemithorax mỗi 24 giờ [ 110 ]. Một điều trị bảo tồn có thể có hiệu quả ngay cả ở trẻ sơ sinh thở máy [111, 112 ], nhưng sự can thiệp thường là cần thiết [111].Đặt trẻ sơ sinh dưới nồng độ oxy cao có thể đẩy nhanh quá trình tái hấp thu khí trong khoang màng phổi bằng cách tạo ra một gradient khuếch tán. Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh, kỹ thuật này bị hạn chế bởi độc tính oxy và tăng nguy cơ mắc bệnh võng mạc do sinh non [109].Chọc hút giải áp bằng kim là phương pháp điều trị ưu tiên trong các trường hợp khẩn cấp như tràn khí màng phổi có áp lực, nhưng có thể không hoàn toàn khắc phục tình trạng này [ 109, 111 ]. Phương pháp điều trị tràn khí màng phổi truyền thống nhất là đặt ống dẫn lưu ngực bằng phẫu thuật lồng ngực [109, 112, 113]. Tuy nhiên, một tổng quan hệ thống gần đây cho thấy không đủ bằng chứng để xác định hiệu quả và độ an toàn của việc hút kim so với dẫn lưu ống ngực trong điều trị tràn khí màng phổi ở trẻ sơ sinh [114].Gần đây, ống thông đuôi lợn pigtail catheters đã được sử dụng để điều trị tràn khí màng phổi ở trẻ sơ sinh, với bằng chứng là an toàn, hiệu quả và giảm sự khó chịu trong khi đặt và biến chứng [109] kể cả ở trẻ sơ sinh non tháng [115].Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong tương lai là cần thiết để xác định phương pháp nào là ưu việt hơn trong điều trị tràn khí màng phổi sơ sinh ở bệnh nhân thở máy. Xuất huyết phổi là một tình trạng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, được đặc trưng bởi chảy máu ồ ạt trong nhu mô phổi và đường thở, với tỷ lệ tử vong trên 50% trong thời kỳ sơ sinh [116]. Các yếu tố nguy cơ phù hợp nhất cho sự xuất hiện của nó là sinh non, hội chứng suy hô hấp RDS, sử dụng chất hoạt động bề mặt ngoại sinh và còn ống động mạch PDA, đặc biệt ở trẻ sinh non dưới 28 tuần tuổi và/hoặc cân nặng khi sinh <1000 gram. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm khí phế thủng phổi PIE, tràn khí màng phổi, nhiễm trùng phổi, nhiễm toan chuyển hóa, sốc, hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, rối loạn đông máu lan tỏa DIC, điều trị ECMO, bệnh lý rối loạn đông máu di truyền, sang chấn đường thở đặc biệt là sau khi đặt nội khí quản [118].Xuất huyết phổi biểu hiện lâm sàng với chức năng phổi nhanh chóng xấu đi phụ thuộc vào cường độ của xuất huyết, với tình trạng thiếu oxy, tăng CO2 máu và nhu cầu tăng thông số thông khí. Máu có thể được nhìn thấy trong hầu họng hoặc khí quản. Dấu hiệu toàn thân với nhiễm toan chuyển hóa và sốc. Các thử nghiệm nên bao gồm chụp X-quang ngực, siêu âm tim để loại trừ PDA, xử lý nhiễm trùng huyết và sàng lọc cuối cùng các bệnh di truyền nếu không phát hiện được các yếu tố nguy cơ khác [119].Điều trị nên bao gồm các biện pháp hỗ trợ chung truyền máu, huyết tương hoặc tiểu cầu, theo chỉ định; điều chỉnh nhiễm toan chuyển hóa; thuốc tăng co bóp để cải thiện huyết áp hệ thống; Điều trị PDA trừ giảm tiểu cầu nặng; điều trị bằng kháng sinh bao gồm vancomycin và bao phủ cả vi khuẩn gram âm [118, 119].Chiến lược thông khí được sử dụng chủ yếu dựa trên các quan sát thực nghiệm, không có khuyến nghị dựa trên bằng chứng. Trong hỗ trợ thông khí thông thường, khuyến nghị tăng cài đặt tần số cao hơn F, áp lực dương cuối thì thở ra cao hơn PEEP và áp lực đường thở trung bình cao hơn Pāw. Mặc dù không có bằng chứng, các nghiên cứu quan sát cho thấy rằng sự hỗ trợ với thông khí dao động tần số cao HFOV cho phép kiểm soát nhiều trường hợp xuất huyết phổi hơn khi so sánh với hỗ trợ thông thường [118, 119].Các biện pháp điều trị cụ thể khác bao gồm điều trị bằng yếu tố tái tổ hợp VIIa liều, tần suất và tính nhất quán của đáp ứng chưa được thiết lập ở bệnh nhân sơ sinh, epinephrine nebulized, và tiêm epinephrine lặp lại 0,5 ml pha loãng 1 qua ống nội khí quản [108].15. Giám sát trẻ sơ sinh thông khíCùng với việc chăm sóc hô hấp cho trẻ sơ sinh thở máy, theo dõi thông khí có tầm quan trọng rất lớn, đối với oxy hóa máu tốt, tránh tăng CO2 máu và giảm CO2 máu, cả hai đều liên quan đến các tác động xấu không chỉ đối với sinh non mà còn đối với não bộ. Đo oxy hóa xung SpO2, pH và khí máu, đo carbon dioxide qua da và capnography là tiêu chuẩn chăm sóc trong hầu hết các NICU thực tế [120]. Capnography là một công cụ tiêu chuẩn ở bệnh nhân người lớn và trẻ em thở máy, nhưng nó có những hạn chế về sinh lý và kỹ thuật ở trẻ sơ sinh. Tốc độ hô hấp cao và thể tích khí lưu thông thấp ở trẻ sơ sinh đòi hỏi phải có cảm biến dòng chính với thời gian phản ứng nhanh và khoảng chết tối thiểu hoặc lưu lượng hút thấp khi sử dụng các phép đo dòng bên. Những yêu cầu kỹ thuật này rất khó thực hiện ở trẻ sơ sinh và CO2 cuối triều đo được Pet CO2, phản ánh CO2 phế nang thường gây hiểu lầm và chủ yếu là sử dụng phương pháp capnography để đánh giá xu hướng của Pet CO2 [121].Chức năng và cơ học phổi trực tuyến hiện đang là công cụ có giá trị để hỗ trợ ra quyết định lâm sàng trong việc quản lý trẻ sơ sinh thở máy. Chúng là một công cụ để đánh giá tình trạng bệnh nhân, đánh giá điều trị và hướng dẫn quản lý trẻ sơ sinh trên máy thở. Kiến thức về biểu đồ sóng phổi cũng cải thiện sự hiểu biết về sinh lý phổi và sinh lý bệnh học và phản ứng của họ với hỗ trợ thở máy [122, 123 ]. Các máy thở mới hiện cung cấp thông tin như vậy và các bác sĩ lâm sàng nên làm quen với âm tim sơ sinh là một công cụ có giá trị và ngày càng được sử dụng nhiều trong NICU và có thể đóng góp đáng kể vào việc quản lý huyết động của trẻ sơ sinh thở máy. Nó có vai trò chính trong việc loại trừ khuyết tật tim bẩm sinh, trong đánh giá tăng áp phổi, trong đánh giá các trường hợp hạ huyết áp hoặc sốc, và đáp ứng với trị liệu, cũng như trong quản lý còn ống động mạch [124].NIRS đo độ bão hòa oxy trong khu vực não và có thể đưa ra cảnh báo sớm về mức độ lưu lượng máu não và oxy hóa não thấp, có khả năng giúp ngăn ngừa xuất huyết não thất hoặc nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất ở trẻ sơ sinh [125].Siêu âm phổi là một công cụ chẩn đoán mới nổi và có thể có giá trị gia tăng giúp theo dõi do bệnh lý cụ thể vốn có trong sự non nớt của phổi cũng như độ nhạy cảm đặc biệt của trẻ sơ sinh khi tiếp xúc với bức xạ nhiều lần. [126]16. Kết luậnTóm lại, chúng ta có thể nói rằng thông khí xâm lấn thường là cần thiết để điều trị cho trẻ sơ sinh bị suy hô hấp, và bệnh nhân sơ sinh có đặc điểm sinh lý độc đáo. Mỗi tình huống lâm sàng đặt ra một sự chú ý toàn phần đối với tình trạng lâm sàng chung của bệnh nhân và các bệnh kèm theo. Chăm sóc hô hấp phải được cá nhân hóa và cần phải thích nghi với đặc điểm của bệnh nhân, tình trạng lâm sàng, bệnh kèm theo và tiên lượng tổng thể. Tầm quan trọng của tổng quan này là làm nổi bật các khía cạnh quan trọng cần được thực hiện trong quá trình chăm sóc trẻ sơ sinh thở máy để tối ưu hóa thông khí và theo dõi bệnh nhân, đồng thời không gây ra các tổn thương có thể do thông khí không đầy đủ. Bài viết của Bác sĩ Nguyễn Ngọc Phương Nam - Bác sĩ Hồi sức cấp cứu - Khoa Hồi sức cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park Hiện nay, ngày càng có nhiều bệnh nhân cả trong bệnh viện lẫn ngoài cộng đồng được đặt ống mở khí quản. Bài viết này giới thiệu sơ lược về thủ thuật mở khí quản, lợi ích, biến chứng, một số phương pháp thực hiện và phân biệt các loại ống mở khí quản. 1. Mở khí quản là gì? Mở khí quản là thủ thuật mở da, cơ cổ để đưa dụng cụ Canuyn vào khí quản, tạo đường thông cho khí đi vào phổi mà không qua đường mũi họng để duy trì hô hấp. Mở khí quản được dùng trong 2 tình huống sauCấp tính là trường hợp cấp cứu để duy trì đường thở mà không thể đặt nội khí quản bằng đường miệng được như Chấn thương vùng đầu mặt cổ, hen phế quản ác tính....Mạn tính thường sử dụng ở bệnh nhân thở máy trong thời gian dài. Mở khí quản giúp đưa Canuyn vào khí quản 2. Một số lợi ích của việc mở khí quản Một vài những lợi ích tốt cho sức khỏe trong việc mở khí quản có thể kể đến nhưGiảm công thở ống mở khí quản làm giảm đáng kể chiều dài đường thở so với ống nội khí quản dẫn đến công hô hấp được giảm đáng nhân dễ chịu hơn do có thể cử động vùng cổ, có thể ăn uống, phát âm Với Canuyn có cửa sổChăm sóc đường thở dễ dàng hơn Mở khí quản giúp hút đàm nhớt ở vùng miệng, khí quản dễ hơn. Việc hút sạch đàm nhớt là yếu tố rất quan trọng để giảm nguy cơ viêm phổi cho người bệnhBệnh nhân được đặt ống mở khí quản sẽ dễ cai máy thở hơn, khi bệnh nhân ổn định có thể được điều trị ngoại trú tại nhà. Người bệnh vẫn có thể tự chăm sóc dược mở khí quản tại nhà. 3. Các biến chứng có thể có khi mở khí quản Biến chứng sớm Trong vòng 1 tuần đầuChảy máuChấn thương dây thần kinh thường là dây thần kinh quặt ngược thanh quảnChấn thương thực quảnTràn khí dưới da, tràn khí màng phổiỨ đọng các chất tiết, dẫn đến hít sặc và nhiễm trùng đường hô hấp Biến chứng muộnHẹp khí quảnNhuyễn sụn khí quảnViêm phổi tái diễn nhiều lầnDò khí quản – thực quản, khí quản – da 4. Tiến trình mở khí quản Có 2 phương pháp mở khí quảnPhẫu thuật mở khí quảnMở khí quản xuyên da bằng phương pháp Mở khí quản phẫu thuậtBệnh nhân nằm ngửa, mê toàn thânVết mổ 2-3 cm từ vòng sụn thứ 2 của khí quản xuốngTạo một lỗ giữa vòng sụn khí quản thứ 3 và 4Đặt ống mở khí quảnCố định ống mở khí quản Mô phỏng kỹ thuật mở khí quản phẫu thuật Mở khí quản xuyên da bằng phương pháp nongMở khí quản xuyên da bằng bộ nong là bộ dụng cụ với các ống nong tăng dần về kích thước Từ nhỏ đến lớn để tạo ra đường hầm lỗ vùng khí quản để đặt Canuyn mở khí quản. Chọc kim và có dây dẫn đường guide wide giữa vòng sụn khí quản thứ 1 và mở khí quản được nong rộng dần dần bằng các cây nong với các kích thước khác nhau. Thủ thuật này có thể được làm mù’ hoặc được làm dưới hướng dẫn của dụng cụ nội soi. Bộ mở khí quản qua da bằng phương pháp nong Bằng nhựa loại 1 nòng ống bằng nhựa không có nòng trong và cần phải thay mỗi 5-7 ngày. Loại này có thể có bóng hoặc không có bóng 2 nòng Nòng ngoài và nòng trong, nòng trong có thể lấy ra vệ sinh mỗi ngày, nòng trong còn có loại có cửa sổ để tập thở đường mũi cho người bệnh và người bệnh có thể nói được khi sử dụng mở khí quản loại này. Một số loại nòng mở khí quản 6. Vệ sinh mở khí quản Các bước vệ sinh mở khí quản được thực hiện như sauBệnh nhân được hút đờm thường xuyên khi xuất hiện đờm nhiều trong phổi, hoặc người bệnh có thể khạc đờm ra ngoài thông qua lỗ khai khí băng, rửa vết mổ mở khí quản 1 lần mỗi sát tình trạng vùng da xung quanh mở khí quản khi thay băng, xem xét dấu hiệu vùng da xung quanh mở khí quản sưng, đỏ, chảy máu, chảy mủ...Kiểm tra vị trí ống mở khí quản, kiểm tra dây cột mở khí quản được cột vừa vặn nhét vừa 2 ngón tay, tái khám ngay khi thấy ống mở khí quản tụt hoặc rơi ra tra màu sắc, tính chất đàm nhớt trong ống mở khí quản mỗi khi thay dùng phổi giả “Bộ lọc không khí” để tạo độ ẩm cho không khí, tránh gây khô dẫn đến đờm đặc quánh khó khạc và vệ sinh. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân có lỗ mở khí quản Tiếp cận ban đầu bệnh nhân đa chấn thương Chỉ định mở khí quản cấp cứu

chăm sóc bệnh nhân thở máy qua nội khí quản