chế lan viên nói về hàn mặc tử
Trong bài thơ Trên đường về, Chế Lan Viên viết: "Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn/ Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi". Hàn Mặc Tử cũng từng viết: "Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo/ Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm".
Chính xứ sở hồn thiêng sông núi biên đảo địa linh này đã hút hồn thi sĩ Quách Tấn một trong 4 thành viên Bàn thành tứ hữu (Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên), quê ở Bình Định “đất võ trời văn” chọn nơi đây là quê hương thứ hai định danh và định
Họ đã xa rồi khôn níu lại, Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa. Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. “Họ” ở đây chính là người yêu của thi nhân, hai người đã chia tay và “họ” đã ra đi. Thế nhưng thi nhân không mong như thế, người
Tượng Hàn Mặc Tử trên đồi Mộng Mơ, Đà Lạt. Có lẽ thi sĩ cũng biết điều đó vì anh rể của ông hồi đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và thi sĩ cũng là người có trình độ hiểu biết cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết. Tử đã đoán trước được ngày
Chế Lan Viên - một người bạn, một nhà thơ cùng thời khi đánh giá về Hàn Mạc Tử đã cho rằng: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia tan biến đi và còn lại của cái thời kì
modus dari data pada tabel diatas adalah. Giải tríGiới saoTrong nước Thứ tư, 19/1/2005, 0724 GMT+7 Những vần thơ Chế Lan Viên làm ra đã khiến Hàn Mặc Tử kinh ngạc. Đọc thơ của Chế, thi sĩ họ Hàn tìm ra được một hướng sáng tác những bài thơ điên loạn. Trước đó, ông đã nghiên cứu rất kỹ trường thơ tượng trưng của Pháp. Từ trái sang Các nhà thơ Quách Tấn, Nguyễn Đình, Chế Lan Viên năm 1941. Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. 500 năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ, bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc bật ra những vần thơ thống thiết. Vào những năm 1930-1945, Quy Nhơn - Bình Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của cõi Đồ Bàn, Hoan đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng "Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn". Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thày dạy làm thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc "Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai". Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác những bài thơ điên loạn. Vì vậy, ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc thành lập Trường thơ loạn. Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong Trường thơ loạn say sưa sáng tác. Có những đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại khoái... sọ người hơn "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô". Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời Trường thơ loạn khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa Thơ gì mà rắc rối thế. Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử. Hoài Thanh kể tiếp "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi viết đoạn này Hãy so sánh thái độ can đảm kia thái độ những nhà chân thi sĩ với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống”. Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ đã gây shock cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941. Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. Trường thơ loạn từ đó tan rã. Theo Thanh Niên
Mục lục Câu chuyện cuộc đời Hàn Mặc Tử Chất thơ trong thơ của Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử 22/9/1912 – 11/11/1940 là nhà thơ nổi bậc của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, đi tiên phong trong dòng thơ lãng mạn hiện đại. Nói về Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên ca ngợi “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Hàn Mặc Tử - Ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam Đôi nét về Hàn Mặc Tử Tên thật Nguyễn Trọng Trí Bút danh Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần Quê quán Làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình Cha Nguyễn Văn Toản Mẹ Nguyễn Thị Duy Giai đoạn sáng tác 1928 – 1940 Trào lưu Lãng mạn Tác phẩm Vội vàng chi lắm, Mùa Xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Bẽn Lẽn, Ngủ với Trăng, Thức khuya,… Ý nghĩa bút danh Hàn Mặc Tử Bút danh Hàn Mạc Tử của nhà thơ mang nghĩa là một chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Về sau những người bạn đã gợi ý anh nên vẽ thêm một nét trăng khuyết vào để tăng thêm phần lạnh lẽo cho sự cô đơn của con người trước thiên nhiên. Mặt trăng đó được Hàn Mặc Tử đặt vào chữ Mạc mà thành ra chữ Mặc, Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Và có vẽ như bút danh đã vận vào cuộc đời của nhà thơ tài hoa bạc mệnh, những năm tháng cuối đời Hàn Mặc Tử phải sống trong cảnh lẻ loi, đau đớn vì bệnh tật. Câu chuyện cuộc đời Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử sinh ra với thân hình gầy guộc, ốm yếu, từ nhỏ tính tình hiền lành, ham học, vốn có lối sống giản dị và thích giao du với những người bạn có chung niềm đam mê thơ ca với mình. Hàn Mặc Tử bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ khi còn rất trẻ, lúc ấy nhà thơ mới chỉ 16 tuổi, và Phan Bội Châu chính là người có nhiều ảnh hưởng đến thơ ca của anh. Năm 21 tuổi, Hàn Mặc Tử rời quê vào Sài Gòn lập nghiệp, trở thành phóng viên phụ trách mảng thơ cho tờ báo Công Luận, đây cũng là thời điểm ông và Mộng Cầm quen biết nhau. Mộng Cầm là một cộng tác của tờ báo, cô có niềm đam mê thơ ca và thường xuyên làm thơ gửi lên toà soạn. Dần dà, Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm thư từ qua lại, hai người tâm đầu ý hợp, Hàn Mặc Tử quyết định ra Phan Thiết gặp nàng thơ của mình và bắt đầu một chuyện tình lãng mạn. Khi Hàn Mặc Tử 23 tuổi năm 1935 trên cơ thể anh bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của bệnh phong, nhưng rất nhẹ, Hàn Mặc Tử cho rằng đó chỉ là bệnh ngứa đơn thuần nên không mấy quan tâm. Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử quay lại Sài Gòn lần 2, lúc này ông được nhận làm chủ bút cho tờ Phụ nữ tân văn, Hàn Mặc Tử mới nghĩ đến việc phải trị dứt hẳn căn bệnh “phong ngứa” mà vẫn chưa phát hiện bản thân mắc bệnh nan y, gọi là “phong cùi”. Thời điểm này cũng là lúc nhà thơ cho ra đời tập thơ "Gái quê" nổi tiếng. Thời ấy phong cùi được xem là một căn bệnh truyền nhiễm, hầu như ai cũng có thành kiến với người mắc căn bệnh này, bệnh nhân bị hắt hủi, xa lánh và thậm chí là ngược đãi. Tin nhà thơ Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong cùi nhanh chóng lan rộng, gia đình lựa chọn đưa anh đi cách ly thay vì đi chữa trị ở Bệnh viện phong Quy Hòa. Có một câu chuyện được kể lại liên quan đến căn bệnh của Hàn Mặc Tử Một hôm Hàn Mặc Tử cùng Mộng Cầm đi dạo ở lầu Ông Hoàng Phan Thiết thì có đi ngang một nghĩa địa, ở đó có một ngôi mộ mới an táng thì mưa xuống. Hàn Mặc Tử nhìn thấy từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ, sau anh về nhà nghỉ và rồi sớm phát hiện ra mình mắc bệnh phong cùi. Năm 1938 -1939, bệnh của Hàn Mặc Tử bộc phát dữ dội, cơ thể vô cùng đau đớn nhưng không ai nghe nhà thơ khóc than hay rên rỉ một lời, ông dồn nén tất cả nỗi đau và chỉ gào thét trong thơ. Nguyễn Bá Tín, em trai ruột của Hàn Mặc Tử khi nhớ về những năm tháng cuối đời của anh trai từng nói “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.” Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bị xa lánh, ghê sợ lúc bấy giờ Sau cùng, Hàn Mặc Tử bỏ lại tất cả, quyết vào Bệnh viện phong Quy Hoà để chữa trị, sau khi thăm khám bác sĩ nhận định nội tạng nhà thơ hư hỏng bởi uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm. Vào 5 giờ 45 phút ngày 11/11/1940 Hàn Mặc Tử từ trần tại bệnh viện vì chứng kiết lỵ, lúc ấy nhà thơ chỉ mới 28 tuổi. Xem thêm Dù là thiên tài âm nhạc vì sao Wolfgang Amadeus Mozart lại có cuộc sống thiếu thốn, túng quẫn? Chất thơ trong thơ của Hàn Mặc Tử Từ những ngày đầu tiên chập chững bước vào con đường sáng tác, thơ của Hàn Mặc Tử đã mang màu sắc táo bạo, phá cách, gây tiếng vang lớn trong giới yêu thích thi ca. Với lối thơ nửa kín, nửa mở, trần tục, Hàn Mặc Tử khiến đọc giả phải suy nghĩ và nghiền ngẫm nhiều. Ông dùng con chữ một cách trừu tượng làm nên chiếc đòn bẩy để mà gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc rất riêng tư. “Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối, Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”… Thức khuya “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi” Bẽn lẽn Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử sống lạnh lẽo, cô đơn cùng sự đau đớn cùng cực bởi bệnh “phong cùi”. Đôi bàn tay nhà thơ co quắp, khô cằn nhưng vẫn không ngừng miệt mài sáng tác, không ngừng cống hiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Có lẽ chính bởi những đau khổ trong cuộc đời, niềm khát khao cuộc sống, mà những tác phẩm của ông càng thêm sâu sắc, lạ lẫm, độc đáo nhưng cũng đớn đau và có phần điên loạn. “Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi? Bao giờ tôi hết được yêu vì, Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tựa si?” Những giọt lệ Cái chết của nhà thơ Hàn Mặc Tử chính là sự mất mát lớn của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ, thế nhưng bằng ấy khoảng thời gian ngắn ngủi sống trên đời nhà thơ tài hoa cũng đã để lại rất nhiều những tác phẩm thơ ca bất hủ!
Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ sáu, 4/6/2021, 2000 GMT+7 Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà thơ Chế Lan Viên, Lâm Thanh Lang là tên thật của nhà thơ Yến Lan. Họ đều là những nhà thơ nổi tiếng, là bạn của Hàn Mặc Mặc Tử sinh năm 1912 ở Đồng Hới Quảng Bình, lớn lên ở Quy Nhơn Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Từ bé, Hàn Mặc Tử thể trạng ốm yếu, tính hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn văn thơ. Cha ông làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm có tài làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ban đầu, bút danh của ông là Hàn Mạc Tử, nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm mặt trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật."Mặt Trăng khuyết" đã được đặt vào chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử được hiểu là "chàng trai bút nghiên". Ngoài Hàn Mặc Tử, ông còn có bút danh Lệ Thanh, Phong Trần. Nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ảnh tư liệu. Năm 1936, Bình Định xuất hiện một nhóm thơ được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" hay còn gọi là nhóm thơ Bình Định. Gần 10 năm tồn tại 1936-1945, nhóm chỉ có bốn thành viên là Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Chế Lan thời gian đó, Hàn Mặc Tử biết Yến Lan vừa hoàn thành một tập thơ viết về đề tài chiến tranh, nhan đề Giếng loạn. Tập thơ đã gợi cho Hàn Mặc Tử cái tên của trường phái mà ông định thành đó, Hàn Mặc Tử lại được Chế Lan Viên tặng tập Điêu tàn 1937. Hàn Mặc Tử nhận thấy trong nhóm thơ tính khuynh hướng thể hiện rất rõ trong sáng tác của từng người nên ông đề xướng việc thành lập "trường thơ loạn".Thơ của các thi sĩ "trường thơ loạn" tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy. Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn 1938-1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội, rồi được đưa vào trại phong với tình trạng bệnh đã nặng, toàn thân khô cứng. Ông mất năm 1940, mới 28 phẩm chính của Hàn Mặc Tử Gái quê thơ, 1936; Thơ điên thơ, 1938; Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ kịch thơ, 1939; Quần tiên hội kịch thơ; Chơi giữa mùa trăng thơ văn xuôi, 1940. Ngoài tập Gái quê được in lúc sinh thời, những tác phẩm còn lại được in thành tập sau khi ông Thanh - Hoài Chân trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942 nói về nỗi đau đớn của Hàn Mặc Tử những ngày cuối đời "Tôi nghĩ đến người đã sống trong túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che cho mái nhà đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cảnh thể phách lẫn linh hồn tan rã".Nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình. Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử".>>Quay lại
Giải tríGiới saoTrong nước Thứ sáu, 21/1/2005, 1017 GMT+7 Phong không phải là căn bệnh có thể làm chết người một cách nhanh chóng. Đó là căn bệnh chủ yếu làm cho con người bị tàn phế. Một bệnh nhân cùng nhập viện với Tử tên là Nguyễn Văn Xê vẫn tiếp tục sống thêm 55 năm nữa sau khi Tử qua đời. Tượng Hàn Mặc Tử trên đồi Mộng Mơ, Đà Lạt. Có lẽ thi sĩ cũng biết điều đó vì anh rể của ông hồi đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và thi sĩ cũng là người có trình độ hiểu biết cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết. Tử đã đoán trước được ngày mình sẽ ra đi. Trong bài Trút linh hồn chàng viết "Máu đã khô rồi, thơ cũng khô/ Tình ta chết yểu tự bao giờ/ Từ nay trong gió, trong mây gió/ Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ". Đó là một lời tuyên bố chắc chắn. Từ khi viết bài thơ này cho đến lúc Tử ra đi là khoảng thời gian khá xa và Tử mất là vì bệnh kiết lỵ. Thế nhưng, chàng vẫn viết "Ta trút linh hồn giữa lúc đây/ Gió sầu vô hạn nuối trong cây/ Còn em sao chẳng hay gì cả/ Xin để tang anh đến vạn ngày". Em ở đây là ai? Có lẽ cả Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình lẫn Thương Thương và nhiều hình bóng giai nhân khác. Tất cả những nàng thơ ấy, lúc này đều đã rời xa chàng. Cách đó một thời gian, chàng đã tạm biệt Thương Thương theo lời đề nghị của người anh ruột nàng là Trần Tái Phùng "Than ơi! Hỡi! Biệt ly chan chứa/ Tưởng cùng em vui thú hưởng tiêu dao/ Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa/ Cả đau thương dồn dập xót tâm bào". Lúc này, nhiều câu thơ Tử làm ra cứ như lời tiên tri về cái chết. Đây không phải là đặc điểm của những bài thơ thuộc Trường thơ loạn như đã nói trước đây. Bởi chẳng hạn trong Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng có dùng những từ ngữ để chỉ sự chết chóc nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng thần chết ở đâu mà chỉ là biểu hiện của triết lý thơ điên loạn mà thôi. Còn một số câu thơ Tử viết về cái chết thì lại khác. Ý thơ rất "gở". Chẳng hạn "Ta còn trìu mến biết bao người/ Vẻ đẹp xa hoa của một thời/ Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng/ Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi". Khoảng giữa tháng 9/1940, Tử nhắn Quách Tấn từ Nha Trang ra Quy Nhơn gặp chàng. Lúc này chàng đã được làm xét nghiệm và người ta đã phát hiện ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng. Tử di ngôn lại cho Quách Tấn lo giữ gìn tài sản văn chương của chàng, sau này chàng chết đi thì tùy theo đó mà xử lý. Rồi chàng nhập bệnh viện phong. Nhập viện để chữa trị căn bệnh phong nhưng chàng coi như mình sắp đi vào cõi chết. Vì sao vậy? Trong Duyên kỳ ngộ, nhân vật Nàng có nói "Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt/ Rên không thôi và nức nở cả ban đêm". Quả đúng như vậy. Ly biệt và chết chóc luôn có mặt trong thơ Tử vào thời gian sau này "Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/ Mộng có thành là mộng ở đầu hôm", "Không ai trang điểm má đào/ Cho ta say chết đêm nào đêm nay"... Quách Tấn cho biết, viết thư cho bạn, Tử hay nói về cái chết "Đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh hằng". Cũng trong vở kịch thơ độc đáo này, có một đoạn thơ làm cho nhiều người ngạc nhiên vì nó rất giống những gì xảy ra sau này. Đó là khi nhân vật Chàng sắp sửa chia tay nhân vật Nàng, đã thốt ra lời than khóc "Một mai kia ở bên khe nước ngọc/ Với sương sao anh nằm chết như trăng/ Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc/ Đến hôn anh và rửa vết thương tâm". Theo hồi ức của người bạn đồng bệnh Nguyễn Văn Xê thì Tử mất vào ngày 11/11/1940 trong cô đơn lặng lẽ, không có bất kỳ một người thân nào bên cạnh. Ngay buổi chiều ngày hôm đó, tang lễ được tiến hành một cách đơn giản. Nơi Hàn Mặc Tử yên nghỉ nằm bên cạnh con suối, về mùa mưa nước thường dâng đầy bờ. Điều này y như câu thơ trên mà chàng đã viết trước đó rất lâu. Chàng đã nằm lại bên "khe nước ngọc" đó cho đến gần 20 năm sau mới được gia đình đưa đi nơi khác. Năm 1959, gia đình Tử cùng với người bạn thân là Quách Tấn tìm một mảnh đất khác cho chàng. Sinh thời, chàng rất thích cảnh Đèo Son nhưng vì ở đó đang là khu quân sự thuộc chính quyền Sài Gòn nên đành phải tìm đến Gành Ráng. Ngày 13/1/1959, Tử được cải táng về Gành Ráng. Như vậy là, một đời thơ dữ dội của nhà thơ có số phận lạ kỳ Hàn Mặc Tử đã kết thúc. Chàng đã được thỏa mãn cái ước ao mà ngày nào vị phó soái của Trường thơ loạn Chế Lan Viên từng viết "Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/ Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/ Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo". Theo Thanh Niên
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940 là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức, sinh hạ được 8 người con 1-Nguyễn Bá Nhân tức nhà thơ Mộng Châu cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí tức nhà thơ Hàn Mặc Tử. 5- Nguyễn Bá Tín người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959. 6- Nguyễn Bá Hiếu; 2 người em út Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo. Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ 1920, Qui Nhơn, Bồng Sơn 1921-1923, Pellerin Huế 1926. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền. Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người. Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng. Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học thời đó chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng Phan Thiết, qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên. Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa 20 tháng 9 năm 1940 mang số bệnh nhân và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28. Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện. Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Theo Wikipedia
chế lan viên nói về hàn mặc tử